Kể chuyên Di Linh
Kể chuyện Di Linh,
tiếng gọi Làng Phong
Nguyễn thị Tự Tập
Lần đầu tiên tôi đến Pháp,
6h45 sáng , phi cơ hạ cánh xuống phi
trường Charles de Gaulle .
15h chiều cùng ngày , cô tôi đã vội vàng
đưa tôi đến 140 rue du Bac , chapelle de
la médaille miraculeuse để tạ ơn .
Cô nói việc tôi đến Pháp là 1 ân phúc do
Đức Mẹ trao ban .
Cũng ngay buổi chiều hôm ấy , chúng tôi
đến viếng Hội Thừa Sai Paris (MEP) cách
đó không xa .
Trong nhà nguyện chũng viện , chúng tôi kính nhớ 1 ngày xa xưa ,
năm 1929 , chính nơi đây , Tân linh mục Jean Cassaigne lãnh nhận
bài sai rời nước Pháp ,
lênh đênh trên biển cả suốt tháng trường
để đi tới 1 đất nước rất xa xôi bên bờ Thái Bình Dương : VIỆT NAM
Thời gian trôi , một mình trên cánh đồng truyền giáo hoang dã ,
cách xa quê hương ngàn trùng ,
trải qua bao thực tế đen tối , khó khăn
vị linh mục trẻ tuổi người Pháp ấy đã trở nên
Tông đồ người cùi giửa rừng núi Di Linh.
Với tất cả tình yêu thương dị thường,
Ngài lặn lội vào rừng tìm kiếm những người
Thượng cùi khốn khổ , bị bản làng ruồng rẩy ,
đuổi xô . Thậm chí , có lúc Ngài phải cõng
trên lưng cái thân thể lở lói , tàn phế ấy ,
đưa họ về với ngôi làng bé nhỏ của mình để
nuôi nấng , chăm sóc và yêu thương .
MEP , 128 rue du Bac , PARIS
Dưới chân đồi Di Linh , trại cùi Kala của đức cha Jean Cassaigne hiện
hửu như 1 niềm tin yêu xác thực giửa cuộc đời .
Yêu thương và Tận hiến , Đức Cha Jean Cassaigne đã chuốc vào người
4 thứ bệnh : Sốt rét rừng , Lao phổi ,Lao Xương, Cùi .
Ngài thiết tha cầu xin Thiên Chúa chỉ mỗi 3 điều :
« Xin cho con biết chịu đựng , chịu đau và được chết nơi đây giửa
những người Thượng của con » ( Je ne demande que 3 choses :Tenir ,
souffrir et mourir ici au milieu de mes montagnards )
Paris chiều hôm ấy , trong khuôn viên chũng viện rue du Bac , Cô tôi
và tôi hẹn nhau khi nào về Việt Nam sẽ cùng đi viếng mộ Ngài ,
vị linh mụcThừa sai đã thực sự vẹn toàn lời Thệ nguyện của mình
trong Vinh Quang của Chúa .
Xã hội tôn vinh Ngài
Thủ tướng chính phủ phong tặng Huy chương cho Ngài
Biết bao tâm hồn ngưỡng phục , noi theo gương Ngài
Ấy thế mà lời trăn trối sau cùng của Ngài hết sức khiêm tốn
khiến chúng ta phải bồi hồi xúc cảm và tự phán xét bản thân mình
« Tôi xin những người nào mà khi
còn sống tôi không giúp đỡ được
gì , hãy tha lổi cho tôi .
Tôi xin những người nào mà khi
còn sống tôi đã nêu gương xấu,
hãy tha lổi cho tôi »
Đức Cha Jean Cassaigne quả là
Một vị Thánh từ khi Ngài còn sống.
Năm 1973 , lần đầu tiên tôi được
nghe danh Ngài cũng là lúc Ngài
từ giả cỏi đời . Để được biết đến
Ngài , tôi xin tạ ơn Cha Joseph
Phùng Thanh Quang , tác giả cuốn
« Lạc quan trên miền Thượng
Người đầu tiên đã viết về cuộc đời Đức Cha Jean Cassaigne , Tông Đồ
người cùi , 1 cách chân thực ,cảm động ,mãnh liệt và hào hùng .
Vâng , tôi đã đọc « Lạc quan trên miền Thượng » với tất cả rúng động ,
đảo chao . Nếu được phép nói đến 2 chử phép lạ thì thật sự tôi đã thọ
lãnh phép lạ của Đức Cha ngay trong những trang sách viết về Ngài.
Phép lạ của Ngài đã cứu thoát tôi ra khỏi 1 tâm cảnh đảo điên bắt
nguồn từ nổi thất vọng riêng tư . Đúng vậy , khi tôi đang ở ven bờ vực
thẳm thì Đúc Cha và làng cùi của Ngài hiện ra như 1 thực tế quá vĩ đại,
quá thiêng liêng .Tôi viết ngay trên trang đầu quyễn sách :
« Khi đọc những trang sách này , nổi đau của riêng ta bỗng trở nên
tầm thường và nhỏ bé »
Thế đấy , 1 chút đau khổ tình riêng ,1 mong cầu bất như ý nào có ra gì
so với biết bao khổ đau thực sự tàn khốc , thực sự nhức nhối đến tận
cùng xương tủy , tận đáy tâm hồn .
Đọc xong « Lạc quan trên miền Thượng » , cảm giác đầu tiên của tôi
rất phấn khích . Lẽ tất nhiên : tôi đã bị chinh phục bởi 1 tình yêu
quá diệu kỳ ! Tôi lật từng trang sách , xem đi , xem lại những tấm hình
của Cha Jean Cassaigne từ lúc còn là 1 cậu bé ngây thơ rước lể lần đầu ,
1 chàng chũng sinh hiền lành , trong sáng của hội Thừa sai Paris ,1 ông
Tây mặc áo dài đen Việt Nam , rạng rỡ hân hoan bên cạnh anh em
người Thượng giửa núi rừng , 1 đức Giám mục kém thoải mái trong bộ
lễ phục uy nghi , rồi sau cùng những hình ảnh cuối đời trong sinh hoạt
làng cùi , gương mặt Ngài tỏa sáng 1 cách an nhiên ----Ánh sáng nhân
từ thật sự của 1 con người đạt tới đĩnh cao tuyệt đẹp của Yêu thương ----
« Lạc quan trên miền Thượng » còn có bóng dáng của người
Nử tu Bác Ái Vinh Sơn , hiền dịu như 1 nét chấm phá dịu dàng giửa một
bức tranh đầy những xúc cảm mạnh mẽ . Họ là những cô gái trẻ trung ,
khỏe mạnh , tự nguyện dấn thân với nụ cười hồn nhiên , trong sạch .
Loạt hình minh họa cuộc sống làng cùi có nhiều tấm ảnh rất
đẹp do nhiếp ảnh gia Nguyễn ngọc Hạnh bấm máy . Tôi yêu nhất tấm
ảnh chụp đôi bàn tay tuyệt đẹp của người nử tu đang rửa ráy vết
thương lở lói trên đôi bàn tay cùi cụt của 1 bệnh nhân phong . Đôi bàn
tay ấy cũng rất ân cần , trìu mến đặt lên trang sách của 1 em thơ người
Thượng trong lớp học làng cùi . Ngưỡng mộ và run sợ , tôi không xóa
bỏ được 1 câu hỏi cứ trở đi , trở lại trong đầu suốt 40 năm qua :
« Cuối cùng , người nử tu ấy có nhiểm bịnh như đức cha J. Cassaigne
chăng ? Cuối cùng , đôi bàn tay ấy vẩn được nguyên lành hay đã trở
nên cùi cụt vì chia sẽ yêu thương ? »
1973 , sau mùa hè đỏ lửa , chiến tranh vẩn tiếp diển khốc liệt .
1975 ,hòa bình lập lại với thời kỳ quá độ đầy vất vã , khó khăn …
Năm tháng tiếp nối mãi , tôi vẩn không tìm ra dịp thuận tiện để đến với
Làng cùi . Nhưng « Lạc quan trên miền Thượng » , cuộc đời cha Jean
Cassaigne cùng các nử tử Bác Ái Vinh Sơn vẩn luôn là điểm tựa tinh thần
Mỗi khi cuộc hành trình chông gai và khốn khó của kiếp người xô đẩy
tôi vào những ngõ ngách khổ đau .
Tháng 3/2013
Cuối cùng tôi cũng đến được DiLinh
Không như lời hẹn ước ngày nào giửa chũng viện
Thừa sai Paris
Cô tôi không còn nửa trên cỏi đời này
Bà ra đi nhẹ nhàng như bóng mây qua cầu
Vâng , ngày 8 tháng 3 , 2013 tôi đến Di Linh 1 mình .
Vừa bâng khuâng , tiếc nhớ không có cô tôi chung cuộc hành trình ,
Vừa hồi hộp , xúc động trong tâm trạng của 1 kẻ hành hương
đặt chân lên mãnh đất thiêng liêng .
Vô ích khi kêu lên cảnh vật đã khác xưa !
Gần nửa thế kỹ tôi mới đi lại trên con đường SaiGon Dalat ,
mọi thứ đã đổi thay , tôi cũng đổi thay !
14h 30 xe đò Thành Bưởi dừng trước nhà thờ Di linh .
Sœur Bernadette Chiên , y tá làng Phong , đã chờ sẳn tôi ở đó .
Chúng tôi đi Taxi về làng ( nay gọi là « Trung tâm điều trị Phong
Di Linh » )
Xe chạy vòng quanh lên đồi cao ,
ngang qua những cánh đồng cà phê nở đầy hoa trắng
Thuở xưa , tháng 4/1929 , cách nay 84 năm , làng Phong được hình
thành dưới chân đồi gần thung lũng với mười mấy nếp nhà sàn lợp
tranh .
Số bệnh nhân lúc đó là 21 người . Một mình cha J.Cassaigne
vừa là y công , y tá chăm sóc bệnh , vừa là « giám đốc trại » vừa là cha
xứ coi sóc họ đạo .
1937 , các nử tu Bác Ái Vinh Sơn bắt đầu có mặt.
1952 , số bệnh nhân dần dần tăng , làng được dời lên đồi cao , được
xây dựng theo bản vẻ của kiến trúc sư người Pháp .
60 năm trôi qua , làng phong từ từ thay da đổi thịt .
Ngang qua cổng trại ,
chúng tôi đi trên con đường tráng nhựa sạch đẹp dẩn đến nhà nguyện
chính của làng , 1 kiến trúc thể hiện nét duyên dáng Tây phương pha lẩn phong cách độc đáo của mái nhà rông Tây phong cách độc đáo của mái nhà rông tây nguyên truyền thống .
Tinh thần bao dung , từ ái và niềm tin yêu hy vọng tỏa rạng quanh đây
giửa 1 khung cảnh trong lành , yên ả .
Mộ phần Đức Cha Jean Cassaigne nằm trong khuôn viên nhà nguyện
bên cạnh tháp chuông .
Nụ cười hiền lành bất tử và đôi mắt tinh anh của Ngài vẩn đang tiếp tục
nhắn nhủ yêu thương . Tôi đặt tay lên bia mộ Ngài , ngưỡng phục và
yêu quí . Tôi cầu nguyện và cầu xin Ngài :
« Xin Cha xót thương tiếp nhận con như cha đã xót thương tiếp nhận
Người Thượng cùi khốn khổ của Cha .
Xin gương lành của Cha nuôi dưỡng con , dạy dổ con luôn luôn trong
cách sống ở đời »
Sœur Tú , bề trên cộng đoàn Nử tử Bác Ái Vinh Sơn Di Linh hướng dẩn
tôi viếng thăm phòng riêng và phòng làm việc ngày xưa của Đức Cha .
Tất cả được gìn giử nguyên vẹn như khi Ngài còn sinh tiền . Hương thơm
thánh thiện của 1 đời yêu thương , tận hiến hòa quyện cùng hương
gổ và hương thời gian ủ kín gian phòng . Một cách ngớ ngẩn , tôi tự
hỏi như 1 người thiếu hiểu biết về y học :” Chẵng biết trong bầu khí
này , trên bàn viết mộc mạc này , trên chiếc giường nhỏ đơn sơ khiêm
tốn này còn sót lại con vi trùng Lao hay vi trùng Cùi không nhỉ ?”
Nhưng tuyệt nhiên tôi không hề sợ hải , trái lại lòng tôi dấy lên 1 niềm
vui hạnh phúc . Bởi vì , từ giờ trở đi tôi sẽ rất hân hoan kể rằng :
Tôi đã đến 128 rue du Bac , nơi xuất phát chuyến đi lịch sử , hào hùng
của linh mục J. Cassaigne
Và , tôi cũng đã đến đây , DiLinh ,
mãnh đất cuối cùng nơi Ngài nằm xuống
sau khi đã hoàn thành 1 sứ mệnh thực sự vinh quang !
Tôi cũng sẽ rất hân hoan kể rằng : Chính nơi đây , trong niềm xúc động ,
tôi đã gặp được 2 người nử tu năm xưa có mặt trong quyễn sách “Lạc
quan trên miền Thượng ” . Cả 2 vị không hề bị lây nhiễm bệnh cùi như
tôi đã từng lo lắng .
Soeur Céleste
Chiều hôm ấy trong nhà nguyện làng phong DiLinh tôi đã nhìn thấy
1 ma soeur độ tuổi 90 . Từng bước đi chậm chạp , yếu đuối , từng
động tác trang trọng , nhẹ nhàng , soeur cắm hoa trên bàn Thánh .
Đẹp và cao quý biết bao , một đời dấn thân phục vụ âm thầm , người
nử tỳ của Chúa đã đem hết yêu thương , đem hết tuổi trẻ , đem hết sức
lực của đời mình vun tưới cho hạnh phúc làng Cùi .
Soeur Josephine Mậu
( người có đôi bàn tay đẹp năm xưa )
Còn được gọi là “Mơi Mậu” ( Mẹ Mậu , theo cách gọi kính yêu của
người dân tộc K’Hor )
Tháng 10/1973 khi đức Cha J. Cassaigne qua đời , Soeur Mậu được
bổ nhiệm làm giám đốc trại Cùi Kala . Thế là gánh yêu thương chuyễn
sang đôi vai nhỏ bé của người nử tu 32 tuổi .
Giống như vị Thầy tiền nhiệm của mình , sœur cứ mãi lo lắng ở đâu đó
trong 1 góc rừng , người bệnh phong tuyệt vọng trong đau đớn , đói
khát và cô đơn . Vai đeo gùi mang theo gạo, muối , rau xanh , bông
băng …Sœur vượt suối , băng đèo đi tìm người bệnh nhân khốn khổ
của mình . Có khi người bệnh được điều trị tại chổ , có khi trong trường
hợp nặng sœur mang họ về làng để chăm sóc tốt hơn .
Đứng đầu 1 ngôi làng rộng hơn 50 hecta , trách nhiệm của sœur quả
thật nặng nề . Làm sao để những tâm hồn bất hạnh kia tìm thấy niềm
tin yêu trong cuộc sống đời thường ? Làm sao để có đủ chổ ở , cái ăn
cái mặc và thuốc men trị liệu cho hơn 300 người ( trong đó 147 bệnh
nhân đã tàn phế vĩnh viển ) cộng thêm con cái của họ , nhưng kẻ cùng
chung số phận bị xã hội ruồng rẩy , khước từ ?
Không thể nào kể hết những việc lớn , việc nhỏ mà Sœur Mậu đã làm
với tất cả chăm chút , yêu thương cho cư dân của mình trên ngọn đồi
cô quạnh này .
Vâng , người nử tu ấy
đã từng là « Bà Mụ rất mát tay » cho phụ nử trong làng . Là « cô giáo
tận tụy » theo sát việc học hành của con em bệnh nhân .
Là « Bác nông dân cần mẩn» chung sức với dân làng tật nguyền của
mình , tưới giọt mồ hôi và niềm hy vọng trên những luống cây trồng.
Là người « chủ hôn nhân hậu » cho đôi lứa yêu nhau ước mơ một
« túp lều tranh » bên mãnh vườn cà phê thơm ngát.
Tuyệt vời hơn , Mơi Mậu còn là « người thợ giày » với biết bao trăn
trở , sáng tạo để cho mỗi người bệnh có được đôi giày thích hợp và
vừa vặn với đôi bàn chân bệnh tật của mình , để những bước chân
được vững chải hơn , để đất cứng và sỏi đá không còn dày xéo , xây xát
đến đổ máu mãnh da thịt kia 1 cách tội tình .
Tiếp nối ước mong của đức cha J.Cassaigne , Sœur Mậu đã
miệt mài xây dựng , phát triển làng Phong và cải thiện nếp sống dân
làng ngày một tốt đẹp hơn
Làng Phong hôm nay có 1 bệnh xá khang trang , sạch đẹp được trang bị
những máy móc y tế tối tân . 1 khu dưỡng bệnh êm đềm , 1 nhà phục
hồi thể hình nằm giửa khu vườn hoa nở . 1 trường mẩu giáo đạt tiêu
chuẩn giáo dục mầm non.Và kia , bên triền đồi xanh thắm , những ngôi
nhà gạch xinh xắn, tiện nghi dành cho những bệnh nhân được chửa lành
Bởi vì họ không thể xa rời ngôi làng ấm áp thương yêu này .
Bởi vì dưới chân đồi, bên kia thung lũng , xã hội vẩn còn lắm kỳ thị đối
với những kẻ đã từng mang trong mình con vi trùng quái ác Hansen .
Làng phong còn có 1 nghĩa trang với hàng trăm nấm mộ .
Vâng, giốngnhư Đức cha Jean Cassaigne , những người đã đến với
làng Phong sẽ ở lại mãi mãi với Làng Phong .
Đội ngũ nhân viên y tế Làng Phong gồm có 21 người , trong số đó có
4 nử tu Bác Ái Vinh Sơn ( 1 sœur Bác sĩ + 3 sœurs y tá )
Và , 1 điều rất đáng hảnh diện , 1 thế hệ con em bệnh nhân được
làng Phong cưu mang cho ăn học đến nơi , đến chốn , nay đã
trở về phục vụ trong ngôi làng của mình :
Bác sĩ K’Đỉu hiện nay là Phó giám đốc trung tâm .
Bác sĩ K’Brinh , Bác sĩ Đinh quốc Quan
Y tá K’Hes , hộ lý K’Thủy , K’Rung , K’Riềm và 2 tài xế K’Brẹm ,K’Jeoh
Tất cả ghi nhớ ơn các sœurs đã quan tâm chăm sóc cuộc đời thơ bé
của họ , giúp họ có cơ may tiến bước trên đường học vấn và thành đạt
như hôm nay .
Làng Phong Di Linh chiều 8/3/2013 , một công trình mới lại bắt đầu
dựng xây trên đồi .
Giửa hiện trường gay gắt nắng , 1 phụ nử đội nón lá đi tới, đi lui trên
bải đất đá ngổn ngang , bà đang chỉ dẩn , góp ý cho các người thợ
làm móng . Người phụ nử ấy không còn trẻ nửa , bà đang độ tuổi 72
nhưng tinh thần minh mẩn và sức năng động vẩn thôi thúc bà làm
việc không ngừng như 1 kiến trúc sư không mõi mệt của Làng Phong .
Từ xa , tôi yên lặng đứng nhìn bà –Ngưỡng phục –hân hoan –cảm động.
Đó là người phụ nử mà dân làng và mọi người trên mãnh đất
cao nguyên này gọi « Mơi Mậu» « Mẹ hiền kính yêu của Làng phong».
Đó là người mà , năm 2004 , đài truyền hình thành phố SaiGon
trong chương trình « Người xây tổ ấm » đã gọi là « Người phụ nử
làm rung động trái tim Việt Nam »
Đó là người mà , năm 2006 ,Đại diện chủ tịch nước đã đến tận Làng
Phong để trao tặng Bà tấm huy chương danh giá nhất cấp quốc gia .
Đó là người mà nguyên tổng bí thư đãng Lê khả Phiêu đã phát biểu :
“Đối với Soeur Mậu , phải phong tặng 3 lần huy chương mới xứng
với những gì mà người nử tu này đã cống hiến cho làng Phong .”
Thế đấy , xã hội ghi ơn những cống hiến của Bà , trìu mến đặt cho Bà
những danh hiệu vô cùng hoa mỹ .
Nhưng vượt lên tất cả những danh dự đời thường ,
1 cách đơn sơ, chân thực và dũng cảm , Bà là 1 cô gái mà cách nay
55 năm đã dứt khoát chối từ bao quyến rủ của trần gian , quyết lòng
đi theo tiếng gọi của 1 tình yêu đẩm máu trên thập giá yêu thương .
Vâng , tôi đang đứng trước 1 soeur Josephine Mậu bằng xương ,
bằng thịt .
Tôi xin Soeur cho tôi được phép bắt tay .
Trả lời bằng nụ cười hồn nhiên , soeur đưa tay ra nhưng bảo rằng :
” đang làm việc nên tay không được sạch” .
Thật vô cùng khiêm tốn , Soeur không biết rằng tôi đang rất hân hạnh
nắm lấy 1 bàn tay rất sạch , rất cao quý ,
bàn tay cả đời phục vụ và yêu thương .
Soeur cũng không biết rằng
thật sự tôi đã yêu bàn tay ấy từ 40 năm về trước .
Bàn tay đi vào lịch sử của làng Phong !
Di Linh , Làng Phong ! Tôi đã đến đây thật rồi . Soeur Tú hứa dành cho
tôi 1 phòng riêng trong những ngày lưu trú .
Tôi xin soeur cho tôi ăn cơm nửa , soeur tinh nghịch đáp : Không,
ở đây chúng em chỉ ăn cháo thôi !
Nhưng chiều hôm ấy tôi không ở lại làng Phong Dilinh . Anh K’Brem lái
chiếc xe tải nhỏ chở gạo và nhu yếu phẩm , quà tặng của 1 phái đoàn
từ thiện ở SaiGon dành cho bệnh nhân Làng Phong GiaLành (Đồng Lạc)
cách đó 9km .Thế là tôi và Soeur Chiên theo xe về Gia Lành .
Làng Phong Gia Lành, lại 1 thành quả từ đôi tay soeur Mậu !
Năm đó , 1 ông chủ đồn điền người Đức ( quốc tịch Pháp) được
Soeur Mậu giúp cho khỏi bệnh , để tỏ lòng biết ơn , ông đã nhượng
lại cho các soeurs 1 sở đất 50 hecta với giá thật rẻ . Tiếp đó , nhờ sự
ũng hộ tài chính của 1 tổ chức từ thiện phi chính phủ , Làng Phong
Gia Lành mọc lên , tuyệt vời như trong 1 giấc mơ có thực .
50 ngôi nhà gạch xinh xắn , đầy đủ tiện nghi dành cho 50 gia đình
bệnh nhân K’Hor được chửa lành . Mỗi nhà có 30m2 đất ở và 2.000m2
đất trồng cho thu nhập riêng tư .
Làng có 1 nguyện đường , trạm y tế , nhà trẻ , lớp học tình thương và
1 cộng đoàn các soeurs Bác Ái Vinh Sơn chung sống để tiếp tục đồng
hành , tiếp tục yêu thương .
Từ 1 thành phố đông đúc dân cư , ồn ào , khó thở , tôi bước chân vào
Làng Phong Gia Lành trong cảm giác nhẹ nhàng , thích thú . Nơi đây
cách xa trục lộ giao thông không đầy 200m nhưng chừng như đã cách
biệt hẳn với thế giới bên ngoài . Vườn cây xanh như buồng phổi thanh
khiết của thiên nhiên đang thở chung với đất và người 1 nhịp thở
tràn trề , sung mản .
Con đường làng yên ả vòng quanh khắp cùng địa phận , nối liền nghĩa
tình của những cư dân có chung 1 số phận , 1 mệnh đời . Buổi chiều
tan trường ,1 vài bóng học sinh mặc đồng phục đạp xe vào cổng làng
hướng về những nếp nhà nho nhỏ , khiêm nhường và mản nguyện bên
mãnh vườn cà phê ngan ngát hương hoa .
Soeur Hoàng Hoa , bề trên cộng đoàn Gia Lành dành cho tôi 1 ngôi
nhà riêng biệt trong khu trung tâm của làng .Tôi cảm thấy thoải mái
như được trở về trong ngôi nhà của chính mình sau 1 chuyến đi rất
dài , rất xa . Khí hậu cao nguyên thật dể chịu , lần đầu tiên sau bao
ngày về Việt Nam , tôi mới sống lại cảm giác tươi mát như những
ngày mùa Xuân trên đất Pháp .
18 giờ , dân làng tề tựu chung quanh tượng đài Đức Mẹ . Mọi người
đọc kinh , lần chuổi bằng tiếng K’Hor .
Bàng hoàng và xúc động , tôi lắngnghe 1 âm điệu chân thành , khẩn
khoản , lập đi , lập lại như 1 điệp khúc thiết tha . Phải chăng đó là âm
điệu đặc biệt của ngôn ngữ K’Hor hay đó chính là tiếng lòng thống thiết
của những tâm hồn đau khổ đang tỏ bày cùng Đức Mẹ bao nổi
niềm riêng ?
Giờ cơm chiều , sau lời giới thiệu của Soeur Chiên , Cộng đoàn các
Soeurs Gia Lành chào mừng tôi bằng 1 tràng pháo tay nồng nhiệt ,
hiếu khách .
Bên ngoài trời đã tối . Núi rừng bắt đầu tỏa hơi sương .
Chúng tôi dùng cơm trong rộn rả tiếng cười . Thịt gà thơm , mềm do
gà được vổ béo tự nhiên trong vườn nhà . Rau sạch , trái cây chín :
Đu đủ , bơ , chuối , mãng cầu, mận …chất vun trên bàn .
Tất cả đều do các soeurs tự tay trồng lấy . Đất làng Phong màu mở
tự nhiên không phân bón hóa học , không xử lý bằng thuốc trừ sâu .
Cuộc sống giửa thiên nhiên trong lành , thú vị biết bao !
Bửa cơm chấm dứt , chúng tôi cùng đọc kinh tạ ơn Chúa trong gian
phòng ấm áp tình huynh đệ giửa những con người cùng chung
lý tưỡng , cùng chung 1 sứ mệnh chia sẽ yêu thương.
Đêm làng Phong thanh vắng lạ thường .
Một mình trong ngôi nhà biệt lập , giửa bóng tối bao la , tôi có cảm giác
hồn thiêng núi rừng đang lướt thướt trong sương mù .
Đêm lạnh ,nhưng không lạnh nhiều đến khó chịu .
Trong chăn ấm , tôi tự hỏi mình sẽ ở lại đây chăng nhỉ ?
Sẽ ở lại đút cơm cho người bệnh nhân già nua , tàn phế không còn
bàn tay cầm muỗng để ăn ?
Sẽ ở lại với các em học sinh thơ bé , vun đắp cùng em 1 ước mơ đẹp
vượt xa biên giới làng Phong ?
Sẽ ở lại để mỗi ngày tưới rau , tưới trà , tưới cà phê ,
tưới hoa dưới chân Đức Mẹ … và để cùng với các soeurs đeo gùi đi tới
những góc rừng của người dân tộc khốn khổ bên kia con suối ?
Tôi mơ màng trong những câu hỏi chưa được trả lời và thiếp đi trong
hình ảnh của Cô tôi , chừng như bà đã đến Di Linh và chúng tôi đang
cùng ở bên nhau trong 1 ngôi nhà như những ngày xưa ấy ….
5h sáng , tiếng gỏ cửa và tiếng Soeur Chiên đánh thức tôi dậy .
Rộn rã trong 1 niềm hân hoan mới mẽ ,
Tôi đọc kinh phụng vụ lời Chúa với cả tâm hồn nhiệt thành , trong sáng .
Phía đông làng Phong Gia Lành , mặt trời từ từ nhô lên trên dãy núi xa,
rực rỡ , tươi hồng và to lớn gấp 3 lần mặt trời ở đồng bằng .
Cả thung lũng chợt sáng lên 1 niềm vui xanh ngát .
1 ngày mới của tôi bắt đầu như thế,
trên cao nguyên hạnh phúc và thanh bình !
Viết để kính tặng Cô tôi , Gisèle Trần thị Sang
Kỹ niệm 100 ngày mất của Cô ( 9/1/2013—19/4/2013)
Nguyễn thị Tư Tập
tiếng gọi Làng Phong
Nguyễn thị Tự Tập
Lần đầu tiên tôi đến Pháp,
6h45 sáng , phi cơ hạ cánh xuống phi
trường Charles de Gaulle .
15h chiều cùng ngày , cô tôi đã vội vàng
đưa tôi đến 140 rue du Bac , chapelle de
la médaille miraculeuse để tạ ơn .
Cô nói việc tôi đến Pháp là 1 ân phúc do
Đức Mẹ trao ban .
Cũng ngay buổi chiều hôm ấy , chúng tôi
đến viếng Hội Thừa Sai Paris (MEP) cách
đó không xa .
Trong nhà nguyện chũng viện , chúng tôi kính nhớ 1 ngày xa xưa ,
năm 1929 , chính nơi đây , Tân linh mục Jean Cassaigne lãnh nhận
bài sai rời nước Pháp ,
lênh đênh trên biển cả suốt tháng trường
để đi tới 1 đất nước rất xa xôi bên bờ Thái Bình Dương : VIỆT NAM
Thời gian trôi , một mình trên cánh đồng truyền giáo hoang dã ,
cách xa quê hương ngàn trùng ,
trải qua bao thực tế đen tối , khó khăn
vị linh mục trẻ tuổi người Pháp ấy đã trở nên
Tông đồ người cùi giửa rừng núi Di Linh.
Với tất cả tình yêu thương dị thường,
Ngài lặn lội vào rừng tìm kiếm những người
Thượng cùi khốn khổ , bị bản làng ruồng rẩy ,
đuổi xô . Thậm chí , có lúc Ngài phải cõng
trên lưng cái thân thể lở lói , tàn phế ấy ,
đưa họ về với ngôi làng bé nhỏ của mình để
nuôi nấng , chăm sóc và yêu thương .
MEP , 128 rue du Bac , PARIS
Dưới chân đồi Di Linh , trại cùi Kala của đức cha Jean Cassaigne hiện
hửu như 1 niềm tin yêu xác thực giửa cuộc đời .
Yêu thương và Tận hiến , Đức Cha Jean Cassaigne đã chuốc vào người
4 thứ bệnh : Sốt rét rừng , Lao phổi ,Lao Xương, Cùi .
Ngài thiết tha cầu xin Thiên Chúa chỉ mỗi 3 điều :
« Xin cho con biết chịu đựng , chịu đau và được chết nơi đây giửa
những người Thượng của con » ( Je ne demande que 3 choses :Tenir ,
souffrir et mourir ici au milieu de mes montagnards )
Paris chiều hôm ấy , trong khuôn viên chũng viện rue du Bac , Cô tôi
và tôi hẹn nhau khi nào về Việt Nam sẽ cùng đi viếng mộ Ngài ,
vị linh mụcThừa sai đã thực sự vẹn toàn lời Thệ nguyện của mình
trong Vinh Quang của Chúa .
Xã hội tôn vinh Ngài
Thủ tướng chính phủ phong tặng Huy chương cho Ngài
Biết bao tâm hồn ngưỡng phục , noi theo gương Ngài
Ấy thế mà lời trăn trối sau cùng của Ngài hết sức khiêm tốn
khiến chúng ta phải bồi hồi xúc cảm và tự phán xét bản thân mình
« Tôi xin những người nào mà khi
còn sống tôi không giúp đỡ được
gì , hãy tha lổi cho tôi .
Tôi xin những người nào mà khi
còn sống tôi đã nêu gương xấu,
hãy tha lổi cho tôi »
Đức Cha Jean Cassaigne quả là
Một vị Thánh từ khi Ngài còn sống.
Năm 1973 , lần đầu tiên tôi được
nghe danh Ngài cũng là lúc Ngài
từ giả cỏi đời . Để được biết đến
Ngài , tôi xin tạ ơn Cha Joseph
Phùng Thanh Quang , tác giả cuốn
« Lạc quan trên miền Thượng
Người đầu tiên đã viết về cuộc đời Đức Cha Jean Cassaigne , Tông Đồ
người cùi , 1 cách chân thực ,cảm động ,mãnh liệt và hào hùng .
Vâng , tôi đã đọc « Lạc quan trên miền Thượng » với tất cả rúng động ,
đảo chao . Nếu được phép nói đến 2 chử phép lạ thì thật sự tôi đã thọ
lãnh phép lạ của Đức Cha ngay trong những trang sách viết về Ngài.
Phép lạ của Ngài đã cứu thoát tôi ra khỏi 1 tâm cảnh đảo điên bắt
nguồn từ nổi thất vọng riêng tư . Đúng vậy , khi tôi đang ở ven bờ vực
thẳm thì Đúc Cha và làng cùi của Ngài hiện ra như 1 thực tế quá vĩ đại,
quá thiêng liêng .Tôi viết ngay trên trang đầu quyễn sách :
« Khi đọc những trang sách này , nổi đau của riêng ta bỗng trở nên
tầm thường và nhỏ bé »
Thế đấy , 1 chút đau khổ tình riêng ,1 mong cầu bất như ý nào có ra gì
so với biết bao khổ đau thực sự tàn khốc , thực sự nhức nhối đến tận
cùng xương tủy , tận đáy tâm hồn .
Đọc xong « Lạc quan trên miền Thượng » , cảm giác đầu tiên của tôi
rất phấn khích . Lẽ tất nhiên : tôi đã bị chinh phục bởi 1 tình yêu
quá diệu kỳ ! Tôi lật từng trang sách , xem đi , xem lại những tấm hình
của Cha Jean Cassaigne từ lúc còn là 1 cậu bé ngây thơ rước lể lần đầu ,
1 chàng chũng sinh hiền lành , trong sáng của hội Thừa sai Paris ,1 ông
Tây mặc áo dài đen Việt Nam , rạng rỡ hân hoan bên cạnh anh em
người Thượng giửa núi rừng , 1 đức Giám mục kém thoải mái trong bộ
lễ phục uy nghi , rồi sau cùng những hình ảnh cuối đời trong sinh hoạt
làng cùi , gương mặt Ngài tỏa sáng 1 cách an nhiên ----Ánh sáng nhân
từ thật sự của 1 con người đạt tới đĩnh cao tuyệt đẹp của Yêu thương ----
« Lạc quan trên miền Thượng » còn có bóng dáng của người
Nử tu Bác Ái Vinh Sơn , hiền dịu như 1 nét chấm phá dịu dàng giửa một
bức tranh đầy những xúc cảm mạnh mẽ . Họ là những cô gái trẻ trung ,
khỏe mạnh , tự nguyện dấn thân với nụ cười hồn nhiên , trong sạch .
Loạt hình minh họa cuộc sống làng cùi có nhiều tấm ảnh rất
đẹp do nhiếp ảnh gia Nguyễn ngọc Hạnh bấm máy . Tôi yêu nhất tấm
ảnh chụp đôi bàn tay tuyệt đẹp của người nử tu đang rửa ráy vết
thương lở lói trên đôi bàn tay cùi cụt của 1 bệnh nhân phong . Đôi bàn
tay ấy cũng rất ân cần , trìu mến đặt lên trang sách của 1 em thơ người
Thượng trong lớp học làng cùi . Ngưỡng mộ và run sợ , tôi không xóa
bỏ được 1 câu hỏi cứ trở đi , trở lại trong đầu suốt 40 năm qua :
« Cuối cùng , người nử tu ấy có nhiểm bịnh như đức cha J. Cassaigne
chăng ? Cuối cùng , đôi bàn tay ấy vẩn được nguyên lành hay đã trở
nên cùi cụt vì chia sẽ yêu thương ? »
1973 , sau mùa hè đỏ lửa , chiến tranh vẩn tiếp diển khốc liệt .
1975 ,hòa bình lập lại với thời kỳ quá độ đầy vất vã , khó khăn …
Năm tháng tiếp nối mãi , tôi vẩn không tìm ra dịp thuận tiện để đến với
Làng cùi . Nhưng « Lạc quan trên miền Thượng » , cuộc đời cha Jean
Cassaigne cùng các nử tử Bác Ái Vinh Sơn vẩn luôn là điểm tựa tinh thần
Mỗi khi cuộc hành trình chông gai và khốn khó của kiếp người xô đẩy
tôi vào những ngõ ngách khổ đau .
Tháng 3/2013
Cuối cùng tôi cũng đến được DiLinh
Không như lời hẹn ước ngày nào giửa chũng viện
Thừa sai Paris
Cô tôi không còn nửa trên cỏi đời này
Bà ra đi nhẹ nhàng như bóng mây qua cầu
Vâng , ngày 8 tháng 3 , 2013 tôi đến Di Linh 1 mình .
Vừa bâng khuâng , tiếc nhớ không có cô tôi chung cuộc hành trình ,
Vừa hồi hộp , xúc động trong tâm trạng của 1 kẻ hành hương
đặt chân lên mãnh đất thiêng liêng .
Vô ích khi kêu lên cảnh vật đã khác xưa !
Gần nửa thế kỹ tôi mới đi lại trên con đường SaiGon Dalat ,
mọi thứ đã đổi thay , tôi cũng đổi thay !
14h 30 xe đò Thành Bưởi dừng trước nhà thờ Di linh .
Sœur Bernadette Chiên , y tá làng Phong , đã chờ sẳn tôi ở đó .
Chúng tôi đi Taxi về làng ( nay gọi là « Trung tâm điều trị Phong
Di Linh » )
Xe chạy vòng quanh lên đồi cao ,
ngang qua những cánh đồng cà phê nở đầy hoa trắng
Thuở xưa , tháng 4/1929 , cách nay 84 năm , làng Phong được hình
thành dưới chân đồi gần thung lũng với mười mấy nếp nhà sàn lợp
tranh .
Số bệnh nhân lúc đó là 21 người . Một mình cha J.Cassaigne
vừa là y công , y tá chăm sóc bệnh , vừa là « giám đốc trại » vừa là cha
xứ coi sóc họ đạo .
1937 , các nử tu Bác Ái Vinh Sơn bắt đầu có mặt.
1952 , số bệnh nhân dần dần tăng , làng được dời lên đồi cao , được
xây dựng theo bản vẻ của kiến trúc sư người Pháp .
60 năm trôi qua , làng phong từ từ thay da đổi thịt .
Ngang qua cổng trại ,
chúng tôi đi trên con đường tráng nhựa sạch đẹp dẩn đến nhà nguyện
chính của làng , 1 kiến trúc thể hiện nét duyên dáng Tây phương pha lẩn phong cách độc đáo của mái nhà rông Tây phong cách độc đáo của mái nhà rông tây nguyên truyền thống .
Tinh thần bao dung , từ ái và niềm tin yêu hy vọng tỏa rạng quanh đây
giửa 1 khung cảnh trong lành , yên ả .
Mộ phần Đức Cha Jean Cassaigne nằm trong khuôn viên nhà nguyện
bên cạnh tháp chuông .
Nụ cười hiền lành bất tử và đôi mắt tinh anh của Ngài vẩn đang tiếp tục
nhắn nhủ yêu thương . Tôi đặt tay lên bia mộ Ngài , ngưỡng phục và
yêu quí . Tôi cầu nguyện và cầu xin Ngài :
« Xin Cha xót thương tiếp nhận con như cha đã xót thương tiếp nhận
Người Thượng cùi khốn khổ của Cha .
Xin gương lành của Cha nuôi dưỡng con , dạy dổ con luôn luôn trong
cách sống ở đời »
Sœur Tú , bề trên cộng đoàn Nử tử Bác Ái Vinh Sơn Di Linh hướng dẩn
tôi viếng thăm phòng riêng và phòng làm việc ngày xưa của Đức Cha .
Tất cả được gìn giử nguyên vẹn như khi Ngài còn sinh tiền . Hương thơm
thánh thiện của 1 đời yêu thương , tận hiến hòa quyện cùng hương
gổ và hương thời gian ủ kín gian phòng . Một cách ngớ ngẩn , tôi tự
hỏi như 1 người thiếu hiểu biết về y học :” Chẵng biết trong bầu khí
này , trên bàn viết mộc mạc này , trên chiếc giường nhỏ đơn sơ khiêm
tốn này còn sót lại con vi trùng Lao hay vi trùng Cùi không nhỉ ?”
Nhưng tuyệt nhiên tôi không hề sợ hải , trái lại lòng tôi dấy lên 1 niềm
vui hạnh phúc . Bởi vì , từ giờ trở đi tôi sẽ rất hân hoan kể rằng :
Tôi đã đến 128 rue du Bac , nơi xuất phát chuyến đi lịch sử , hào hùng
của linh mục J. Cassaigne
Và , tôi cũng đã đến đây , DiLinh ,
mãnh đất cuối cùng nơi Ngài nằm xuống
sau khi đã hoàn thành 1 sứ mệnh thực sự vinh quang !
Tôi cũng sẽ rất hân hoan kể rằng : Chính nơi đây , trong niềm xúc động ,
tôi đã gặp được 2 người nử tu năm xưa có mặt trong quyễn sách “Lạc
quan trên miền Thượng ” . Cả 2 vị không hề bị lây nhiễm bệnh cùi như
tôi đã từng lo lắng .
Soeur Céleste
Chiều hôm ấy trong nhà nguyện làng phong DiLinh tôi đã nhìn thấy
1 ma soeur độ tuổi 90 . Từng bước đi chậm chạp , yếu đuối , từng
động tác trang trọng , nhẹ nhàng , soeur cắm hoa trên bàn Thánh .
Đẹp và cao quý biết bao , một đời dấn thân phục vụ âm thầm , người
nử tỳ của Chúa đã đem hết yêu thương , đem hết tuổi trẻ , đem hết sức
lực của đời mình vun tưới cho hạnh phúc làng Cùi .
Soeur Josephine Mậu
( người có đôi bàn tay đẹp năm xưa )
Còn được gọi là “Mơi Mậu” ( Mẹ Mậu , theo cách gọi kính yêu của
người dân tộc K’Hor )
Tháng 10/1973 khi đức Cha J. Cassaigne qua đời , Soeur Mậu được
bổ nhiệm làm giám đốc trại Cùi Kala . Thế là gánh yêu thương chuyễn
sang đôi vai nhỏ bé của người nử tu 32 tuổi .
Giống như vị Thầy tiền nhiệm của mình , sœur cứ mãi lo lắng ở đâu đó
trong 1 góc rừng , người bệnh phong tuyệt vọng trong đau đớn , đói
khát và cô đơn . Vai đeo gùi mang theo gạo, muối , rau xanh , bông
băng …Sœur vượt suối , băng đèo đi tìm người bệnh nhân khốn khổ
của mình . Có khi người bệnh được điều trị tại chổ , có khi trong trường
hợp nặng sœur mang họ về làng để chăm sóc tốt hơn .
Đứng đầu 1 ngôi làng rộng hơn 50 hecta , trách nhiệm của sœur quả
thật nặng nề . Làm sao để những tâm hồn bất hạnh kia tìm thấy niềm
tin yêu trong cuộc sống đời thường ? Làm sao để có đủ chổ ở , cái ăn
cái mặc và thuốc men trị liệu cho hơn 300 người ( trong đó 147 bệnh
nhân đã tàn phế vĩnh viển ) cộng thêm con cái của họ , nhưng kẻ cùng
chung số phận bị xã hội ruồng rẩy , khước từ ?
Không thể nào kể hết những việc lớn , việc nhỏ mà Sœur Mậu đã làm
với tất cả chăm chút , yêu thương cho cư dân của mình trên ngọn đồi
cô quạnh này .
Vâng , người nử tu ấy
đã từng là « Bà Mụ rất mát tay » cho phụ nử trong làng . Là « cô giáo
tận tụy » theo sát việc học hành của con em bệnh nhân .
Là « Bác nông dân cần mẩn» chung sức với dân làng tật nguyền của
mình , tưới giọt mồ hôi và niềm hy vọng trên những luống cây trồng.
Là người « chủ hôn nhân hậu » cho đôi lứa yêu nhau ước mơ một
« túp lều tranh » bên mãnh vườn cà phê thơm ngát.
Tuyệt vời hơn , Mơi Mậu còn là « người thợ giày » với biết bao trăn
trở , sáng tạo để cho mỗi người bệnh có được đôi giày thích hợp và
vừa vặn với đôi bàn chân bệnh tật của mình , để những bước chân
được vững chải hơn , để đất cứng và sỏi đá không còn dày xéo , xây xát
đến đổ máu mãnh da thịt kia 1 cách tội tình .
Tiếp nối ước mong của đức cha J.Cassaigne , Sœur Mậu đã
miệt mài xây dựng , phát triển làng Phong và cải thiện nếp sống dân
làng ngày một tốt đẹp hơn
Làng Phong hôm nay có 1 bệnh xá khang trang , sạch đẹp được trang bị
những máy móc y tế tối tân . 1 khu dưỡng bệnh êm đềm , 1 nhà phục
hồi thể hình nằm giửa khu vườn hoa nở . 1 trường mẩu giáo đạt tiêu
chuẩn giáo dục mầm non.Và kia , bên triền đồi xanh thắm , những ngôi
nhà gạch xinh xắn, tiện nghi dành cho những bệnh nhân được chửa lành
Bởi vì họ không thể xa rời ngôi làng ấm áp thương yêu này .
Bởi vì dưới chân đồi, bên kia thung lũng , xã hội vẩn còn lắm kỳ thị đối
với những kẻ đã từng mang trong mình con vi trùng quái ác Hansen .
Làng phong còn có 1 nghĩa trang với hàng trăm nấm mộ .
Vâng, giốngnhư Đức cha Jean Cassaigne , những người đã đến với
làng Phong sẽ ở lại mãi mãi với Làng Phong .
Đội ngũ nhân viên y tế Làng Phong gồm có 21 người , trong số đó có
4 nử tu Bác Ái Vinh Sơn ( 1 sœur Bác sĩ + 3 sœurs y tá )
Và , 1 điều rất đáng hảnh diện , 1 thế hệ con em bệnh nhân được
làng Phong cưu mang cho ăn học đến nơi , đến chốn , nay đã
trở về phục vụ trong ngôi làng của mình :
Bác sĩ K’Đỉu hiện nay là Phó giám đốc trung tâm .
Bác sĩ K’Brinh , Bác sĩ Đinh quốc Quan
Y tá K’Hes , hộ lý K’Thủy , K’Rung , K’Riềm và 2 tài xế K’Brẹm ,K’Jeoh
Tất cả ghi nhớ ơn các sœurs đã quan tâm chăm sóc cuộc đời thơ bé
của họ , giúp họ có cơ may tiến bước trên đường học vấn và thành đạt
như hôm nay .
Làng Phong Di Linh chiều 8/3/2013 , một công trình mới lại bắt đầu
dựng xây trên đồi .
Giửa hiện trường gay gắt nắng , 1 phụ nử đội nón lá đi tới, đi lui trên
bải đất đá ngổn ngang , bà đang chỉ dẩn , góp ý cho các người thợ
làm móng . Người phụ nử ấy không còn trẻ nửa , bà đang độ tuổi 72
nhưng tinh thần minh mẩn và sức năng động vẩn thôi thúc bà làm
việc không ngừng như 1 kiến trúc sư không mõi mệt của Làng Phong .
Từ xa , tôi yên lặng đứng nhìn bà –Ngưỡng phục –hân hoan –cảm động.
Đó là người phụ nử mà dân làng và mọi người trên mãnh đất
cao nguyên này gọi « Mơi Mậu» « Mẹ hiền kính yêu của Làng phong».
Đó là người mà , năm 2004 , đài truyền hình thành phố SaiGon
trong chương trình « Người xây tổ ấm » đã gọi là « Người phụ nử
làm rung động trái tim Việt Nam »
Đó là người mà , năm 2006 ,Đại diện chủ tịch nước đã đến tận Làng
Phong để trao tặng Bà tấm huy chương danh giá nhất cấp quốc gia .
Đó là người mà nguyên tổng bí thư đãng Lê khả Phiêu đã phát biểu :
“Đối với Soeur Mậu , phải phong tặng 3 lần huy chương mới xứng
với những gì mà người nử tu này đã cống hiến cho làng Phong .”
Thế đấy , xã hội ghi ơn những cống hiến của Bà , trìu mến đặt cho Bà
những danh hiệu vô cùng hoa mỹ .
Nhưng vượt lên tất cả những danh dự đời thường ,
1 cách đơn sơ, chân thực và dũng cảm , Bà là 1 cô gái mà cách nay
55 năm đã dứt khoát chối từ bao quyến rủ của trần gian , quyết lòng
đi theo tiếng gọi của 1 tình yêu đẩm máu trên thập giá yêu thương .
Vâng , tôi đang đứng trước 1 soeur Josephine Mậu bằng xương ,
bằng thịt .
Tôi xin Soeur cho tôi được phép bắt tay .
Trả lời bằng nụ cười hồn nhiên , soeur đưa tay ra nhưng bảo rằng :
” đang làm việc nên tay không được sạch” .
Thật vô cùng khiêm tốn , Soeur không biết rằng tôi đang rất hân hạnh
nắm lấy 1 bàn tay rất sạch , rất cao quý ,
bàn tay cả đời phục vụ và yêu thương .
Soeur cũng không biết rằng
thật sự tôi đã yêu bàn tay ấy từ 40 năm về trước .
Bàn tay đi vào lịch sử của làng Phong !
Di Linh , Làng Phong ! Tôi đã đến đây thật rồi . Soeur Tú hứa dành cho
tôi 1 phòng riêng trong những ngày lưu trú .
Tôi xin soeur cho tôi ăn cơm nửa , soeur tinh nghịch đáp : Không,
ở đây chúng em chỉ ăn cháo thôi !
Nhưng chiều hôm ấy tôi không ở lại làng Phong Dilinh . Anh K’Brem lái
chiếc xe tải nhỏ chở gạo và nhu yếu phẩm , quà tặng của 1 phái đoàn
từ thiện ở SaiGon dành cho bệnh nhân Làng Phong GiaLành (Đồng Lạc)
cách đó 9km .Thế là tôi và Soeur Chiên theo xe về Gia Lành .
Làng Phong Gia Lành, lại 1 thành quả từ đôi tay soeur Mậu !
Năm đó , 1 ông chủ đồn điền người Đức ( quốc tịch Pháp) được
Soeur Mậu giúp cho khỏi bệnh , để tỏ lòng biết ơn , ông đã nhượng
lại cho các soeurs 1 sở đất 50 hecta với giá thật rẻ . Tiếp đó , nhờ sự
ũng hộ tài chính của 1 tổ chức từ thiện phi chính phủ , Làng Phong
Gia Lành mọc lên , tuyệt vời như trong 1 giấc mơ có thực .
50 ngôi nhà gạch xinh xắn , đầy đủ tiện nghi dành cho 50 gia đình
bệnh nhân K’Hor được chửa lành . Mỗi nhà có 30m2 đất ở và 2.000m2
đất trồng cho thu nhập riêng tư .
Làng có 1 nguyện đường , trạm y tế , nhà trẻ , lớp học tình thương và
1 cộng đoàn các soeurs Bác Ái Vinh Sơn chung sống để tiếp tục đồng
hành , tiếp tục yêu thương .
Từ 1 thành phố đông đúc dân cư , ồn ào , khó thở , tôi bước chân vào
Làng Phong Gia Lành trong cảm giác nhẹ nhàng , thích thú . Nơi đây
cách xa trục lộ giao thông không đầy 200m nhưng chừng như đã cách
biệt hẳn với thế giới bên ngoài . Vườn cây xanh như buồng phổi thanh
khiết của thiên nhiên đang thở chung với đất và người 1 nhịp thở
tràn trề , sung mản .
Con đường làng yên ả vòng quanh khắp cùng địa phận , nối liền nghĩa
tình của những cư dân có chung 1 số phận , 1 mệnh đời . Buổi chiều
tan trường ,1 vài bóng học sinh mặc đồng phục đạp xe vào cổng làng
hướng về những nếp nhà nho nhỏ , khiêm nhường và mản nguyện bên
mãnh vườn cà phê ngan ngát hương hoa .
Soeur Hoàng Hoa , bề trên cộng đoàn Gia Lành dành cho tôi 1 ngôi
nhà riêng biệt trong khu trung tâm của làng .Tôi cảm thấy thoải mái
như được trở về trong ngôi nhà của chính mình sau 1 chuyến đi rất
dài , rất xa . Khí hậu cao nguyên thật dể chịu , lần đầu tiên sau bao
ngày về Việt Nam , tôi mới sống lại cảm giác tươi mát như những
ngày mùa Xuân trên đất Pháp .
18 giờ , dân làng tề tựu chung quanh tượng đài Đức Mẹ . Mọi người
đọc kinh , lần chuổi bằng tiếng K’Hor .
Bàng hoàng và xúc động , tôi lắngnghe 1 âm điệu chân thành , khẩn
khoản , lập đi , lập lại như 1 điệp khúc thiết tha . Phải chăng đó là âm
điệu đặc biệt của ngôn ngữ K’Hor hay đó chính là tiếng lòng thống thiết
của những tâm hồn đau khổ đang tỏ bày cùng Đức Mẹ bao nổi
niềm riêng ?
Giờ cơm chiều , sau lời giới thiệu của Soeur Chiên , Cộng đoàn các
Soeurs Gia Lành chào mừng tôi bằng 1 tràng pháo tay nồng nhiệt ,
hiếu khách .
Bên ngoài trời đã tối . Núi rừng bắt đầu tỏa hơi sương .
Chúng tôi dùng cơm trong rộn rả tiếng cười . Thịt gà thơm , mềm do
gà được vổ béo tự nhiên trong vườn nhà . Rau sạch , trái cây chín :
Đu đủ , bơ , chuối , mãng cầu, mận …chất vun trên bàn .
Tất cả đều do các soeurs tự tay trồng lấy . Đất làng Phong màu mở
tự nhiên không phân bón hóa học , không xử lý bằng thuốc trừ sâu .
Cuộc sống giửa thiên nhiên trong lành , thú vị biết bao !
Bửa cơm chấm dứt , chúng tôi cùng đọc kinh tạ ơn Chúa trong gian
phòng ấm áp tình huynh đệ giửa những con người cùng chung
lý tưỡng , cùng chung 1 sứ mệnh chia sẽ yêu thương.
Đêm làng Phong thanh vắng lạ thường .
Một mình trong ngôi nhà biệt lập , giửa bóng tối bao la , tôi có cảm giác
hồn thiêng núi rừng đang lướt thướt trong sương mù .
Đêm lạnh ,nhưng không lạnh nhiều đến khó chịu .
Trong chăn ấm , tôi tự hỏi mình sẽ ở lại đây chăng nhỉ ?
Sẽ ở lại đút cơm cho người bệnh nhân già nua , tàn phế không còn
bàn tay cầm muỗng để ăn ?
Sẽ ở lại với các em học sinh thơ bé , vun đắp cùng em 1 ước mơ đẹp
vượt xa biên giới làng Phong ?
Sẽ ở lại để mỗi ngày tưới rau , tưới trà , tưới cà phê ,
tưới hoa dưới chân Đức Mẹ … và để cùng với các soeurs đeo gùi đi tới
những góc rừng của người dân tộc khốn khổ bên kia con suối ?
Tôi mơ màng trong những câu hỏi chưa được trả lời và thiếp đi trong
hình ảnh của Cô tôi , chừng như bà đã đến Di Linh và chúng tôi đang
cùng ở bên nhau trong 1 ngôi nhà như những ngày xưa ấy ….
5h sáng , tiếng gỏ cửa và tiếng Soeur Chiên đánh thức tôi dậy .
Rộn rã trong 1 niềm hân hoan mới mẽ ,
Tôi đọc kinh phụng vụ lời Chúa với cả tâm hồn nhiệt thành , trong sáng .
Phía đông làng Phong Gia Lành , mặt trời từ từ nhô lên trên dãy núi xa,
rực rỡ , tươi hồng và to lớn gấp 3 lần mặt trời ở đồng bằng .
Cả thung lũng chợt sáng lên 1 niềm vui xanh ngát .
1 ngày mới của tôi bắt đầu như thế,
trên cao nguyên hạnh phúc và thanh bình !
Viết để kính tặng Cô tôi , Gisèle Trần thị Sang
Kỹ niệm 100 ngày mất của Cô ( 9/1/2013—19/4/2013)
Nguyễn thị Tư Tập