PHỎNG VẤN GS NGỌC DUNG - ĐẠI HỘI ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG II TẠI SEATTLE USA
Phỏng Vấn Giáo Sư Ngọc Dung – Đại Hội Âm Nhạc Truyền Thống Lần II, Seattle, U.S.A.
Tiếng Vọng Quê Hương – Theo gót tiền nhân
Giáo Sư Ngọc Dung học đàn tranh từ năm lên 7 tuổi, là truyền nhân của Giáo Sư nhạc miền Nam nổi tiếng, Giáo Sư Phạm Văn Nghi. Sau khi tốt nghiệp tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn, cô được lưu lại làm giảng viên và dạy đàn từ năm 1967-1970. Năm 1980, sau khi vượt biên và định cư tại thành phố San Jose tiểu bang California, Hoa Kỳ, cô thành lập đoàn Tiếng Vọng Quê Hương chuyên về phổ biến nhạc cổ truyền miền Nam. Đến năm 2000, đoàn chính thức trở thành một tổ chức bất vụ lợi. Bao nhiêu năm miệt mài với âm nhạc, cô đã đào tạo hằng trăm lớp nghệ sĩ, nhạc sĩ chuyên về nhạc cổ truyền niềm Nam.
Giáo sư Ngọc Dung sẽ có mặt biểu diễn và thuyết trình tại Đại Hội Âm Nhạc Truyền Thống Lần II được tổ chức tại Hý Viện Shorecrest, Performing Arts Center ở thành phố Shoreline, phía Bắc Seattle, vào ngày 19 tháng 7 tới đây.
Tuần báo VNVV xin được phép gởi đến quý bạn đọc bài phỏng vấn của nghệ sĩ Việt Hải với Giáo Sư Ngọc Dung để hiểu thêm phần nào những cống hiến của một nghệ sĩ đã dành trọn cuộc đời và tâm huyết để chăm lo và bảo tồn âm nhạc cổ truyền Việt Nam, ngay cả nơi xa xứ.
Hướng Việt: Cơ duyên nào đã đưa cô đến với đàn tranh cũng như chuyên về bộ môn cổ nhạc miền Nam?
Giáo Sư Ngọc Dung: Tôi được chân truyền từ ba má nuôi ông bà Phạm Văn Nghi & Hồ Thị Bửu là giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ Sài Gòn. Tôi nhớ hồi còn nhỏ, thầy Tư Nghi có mở trường tiểu học tư thục, tất cả các em trong xóm đều đi học trường thầy trong đó có tôi, những chiều thứ bảy (học sinh nửa buổi) tôi còn ở lại chơi với mấy bạn, tôi thấy các chú các bác đến nhà thầy & mọi người đến sau lưng xe có chở 1 cây đàn. Tôi nghĩ “hôm nay nhà thầy có chơi nhạc.” Tôi ở lại ngồi nghe. Nhiều lần như vậy, thầy và cô hỏi tôi có thích ca hay đàn không? Nếu thích về xin phép ba má qua đây làm con nuôi với điều kiện không được nhì, cho đứt luôn. Khi về nhà tôi năn nỉ má cho qua bên ấy làm con nuôi, má tôi không đồng ý bởi vì tôi là đứa con gái út của má tôi. Một năm sau, má tôi mất, lúc đó tôi mừng quá (mới 8 tuổi ngu quá phải không quý vị), tôi qua bên ba má nuôi ở luôn. Đầu tiên tôi học ca cùng với một số học sinh của thầy. Tôi không có làn hơi phong phú nên lúc trả bài, tôi sơ ướt đẫm mồ hôi. Thấy vậy, má nuôi bàn với ba nuôi chuyển tôi qua học đàn tranh và hỏi tôi có thích không? Tôi gật đầu. Ba nuôi dạy tôi học đàn tranh ráo riết, có thể nói tuổi thơ của tôi là học đàn tranh, và đàn tranh…mỗi ngày mỗi học; sáu năm trời ròng rã; học xong bài nào tôi hoạ dần bài ấy. Ba tôi đàn Kìm còn má tôi thì hát…Thời gian sau, ba tôi dạy xong một bài nhạc, ông bảo đàn với ông nhưng KHÔNG được đàn bài của ông dạy mà phải tự sáng kiến, tự chế biến ra. Ba tôi nói, nếu đàn bài của ông “cây roi đo (cây chổi lông gà), ba sẽ đánh con”. Sợ quá, tôi vừa đàn vừa khóc vì không biết phải đàn thế nào, nhưng sợ cây chổi lông gà quá nên tôi khảy bậy bạ miễn làm sao trùng giữa câu và cuối câu mà thôi. Đàn xong, ba tôi khen “được được”…Hún hồn! Và từ đó tôi tự thiên biến vạn hoá những nốt nhạc theo ý của tôi.
DVNDT Hướng Viêt: Những tháng năm trao đổi ngón đàn với sự chỉ dẫn của cha nuôi là giáo sư nổi tiếng Phạm Văn Nghi ắt phải có nhiều kỷ niệm lắm xin cô chia xẻ một vài kỷ niệm cho đọc giả được không?
GS Ngọc Dung: Về kỷ niệm thứ nhất: Lúc tôi đàn khá rồim tôi lại thích đàn những bài tân nhạc. Tôi tự nhớ những bài nhạc rồi tập đànm ví dụ: Lòng Mẹ, Mưa Trên Phố Huế v..v…Những âm thanh đó đến tai ba nuôi. Ông liền kêu tôi đến và cấm tuyệt đối không được đàn mấy bài ấy, cần phải luyện tập kỹ lưỡng âm nhạc cổ truyền cao siêu chừng nào thì lúc đó những bài tân nhạc đễ như ăn cơm bữa vậy. Bây giờ tôi thấy đúng.
Về kỷ niệm thứ hai: Là ngày tôi cúng Tổ Âm Nhạc Cổ Truyền Việt Nam. Ngày đó vui lắm, cúng ba ngày. Các học trò của ba má đủ phương trời góc biển tụ họp về tham dự Mọi người kệ nệ, bưng bê lễ vật đến cúng, nhất là phải có một con gà cúng Tổ. Họ làm suốt ngày đêm để kịp ngày chánh cúng Tổ (đêm 11 rạng sáng 12 Âm Lịch). Trong khi cúng, các bạn và các đệ tử của ba má lần lượt ra mắt Tổ, hát suốt đêm. Sáng hôm sau, mọi người đem về một cặp chân gà của mình đã cúng. Mỗi con đều để tên của mình và treo lên giàn bếp xem có học thành tài không? Nếu móng gà cong và chụm lại thì sẽ học thành công, điều này tôi không biết có đúng hay sai?
DVNDT Hướng Việt: Có được nghe cô kể về kỷ niệm khi cô đến thăm Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Văn Khê ở Paris. Xin cô kể lại kỷ niệm này cho độc giả được không?
Gs Ngọc Dung: Năm 1969, tôi và chị Phương Oanh có dịp may tham dự tổ chức Dân Vận Quốc Ngoại Di Âu Châu 2 tháng. Trong chuyến đi này, chị Thuý Hoan khuyên chúng tôi nên gặp ông Trần Văn Khê (xin nói thêm, lúc đó ông Trần Văn Khê là cố vấn ban Hoa Sim). Thành phần sáng lập ban Hoa Sim: Phạm Thuý Hoan (VN), Phương Oanh (Pháp), Ngọc Dung (Mỹ). Lúc đó chúng tôi gặp anh Hải là con của ông Khê và muốn xin gặp ông. Và mấy ngày hôm sau anh Hải nói ba nằm bịnh viện, muốn chúng tôi cùng anh Hải đến. Bác sĩ nhà thương không đồng ý vì thấy chúng tôi mỗi đứa tay cầm một cây đàn tranhm sợ ồn ào bệnh nhân không nghỉ ngơi được nhưng ông Khê nói với bác sĩ rằng: “Có thể tôi nghe nhạc, tôi sẽ bình phục mau hơn.” Chúng tôi được tiếp xúc với ông trong phòng bệnh. Tôi và chị Phương Oanh hoà tấu những bài nhạc mới và những kỷ thuật mới. Khi nghe xong, ông phán một câu: “Hoa Lá Cành, không gốc rễ sẽ chết sớm.” Tôi xin phép ông: “Khi ông khoẻ về nhà, nếu có dịp chúng tôi sẽ đến hầu ông.” Sau một vòng biểu diễn các nước chúng tôi quay về lại Paris. Lúc này anh Trần Quang Hải có gặp chúng tôi và mời chúng tôi đến nhà. Lần này tôi hầu ông những bài nhạc mà ông yêu cầu: Ha, Đăng, Tiểu, 3 bài Nam, và tất cả những bài nhạc mà ông muốn hoà cùng tôi, nói cung là 20 bài tổ. Đàn xong khoảng 3 giờ.Trước khi về, ông phán một câu: “Đúng là có gốc, có rể, tuổi trẻ tài cao.” Những lời nói của ông còn vang vang bên tai tôi…
DVNDT Hướng Việt: Cô có những khó khăn nào những năm tháng mới định cư tại Hoa Kỳ trong công việc giữ nhạc cổ truyền Viêt Nam?
Gs Ngọc Dung: Khi đinh cư ở Mỹ, đầu tiên là phải tham dự các buổi Lễ của cộng đồng tổ chức, trước là phổ biến, sau kiếm học trò…nhưng khó khăn nhất là kiếm nhạc cụ. Khi vượt biển, tôi chỉ mang theo được hai cây đàn tranh. Thời gian đầu, chúng tôi phải đi San Francisco tìm mua đàn tranh Tàu. Đàn tranh Tàu thì dây đàn to, bự quá, nhấn khá khó. Nghe đâu có bán đàn tranh thì tôi lấy địa chỉ, số phone. Mừng nhứt là mua được một ây đàn, khổ cực trăm chiều…Thêm nổi khó khăn khác. Đàn hoài cũng đứt giây. Không có giây đàn tranh, tôi phải dùng giây đàn guitar. Thay một sợi mất $1. Khó khăn nữa là giây đàn guitar ngắn hơn giây đàn tranh. Tôi phải lấy 2 giây ngắn nối lại thành một sợi giầy dài.Giây đàn Guitar rất sắt, lúc đàn Mổ, Rung, Nhấn không cẩn thận trúng ngay chỗ nổi thì sẽ bị đứt tay, chảy máu. Lúc đó có một ông cụ học đàn, thấy vậy ông nói giây đàn này giống giầy niềng răng quá! (Cháu của ông là Nha Sĩ). Tìm ra chân lý! Tôi vội cho ông số giây đàn để order. Mỗi số mua nửa pound, order 4 số: đàn nhỏ 1 số, đàn lớn 3 số…hiện tại tôi còn mấy ký giầy đàn này. Cũng may mắn cho tôi bây giờ mà mua giây đàn lớn thì rất khó.
DVNDT Hướng Việt: Ngoài các tiết mục trình diễn cô còn đóng góp một bài thuyết trình với đề tài, “Diễn giải và minh hoạ 20 bài nhạc tổ miền Nam”, xin cô nói thêm về 20 bài Tổ.
Gs Ngọc Dung: Nói về 20 bài Tổ, tôi xin trình một câu Nho học của tiền nhân đã để lại cho thế hệ sau “NHỨT THỜI LÀU THÔNG NHI THẬP TỔ BẢN” tức người học nhạc miền Nam phải thuộc lòng 20 bài Tổ. Trong đó có
6 Bắc: Lưu Thuỷ Trương, Phú Lục, Lục Chấn, Bình Bán Chấn, Tây Thi trường (vắn), Cổ Bản Trường (Vắn), Xuân Tình Chấn.
7 bài Lễ: Long Đăng, Long Ngâm, Ngũ Đối Hạ, Ngũ Đối Thượng, Tiểu Khúc, Vạn Giá, Xàng Xê
3 bài Nam: Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung).
4 bài Oán: Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng (Cầu), Phụng Cầu (Hoàng), Cửu Khúc Giang Nam.
Âm Nhạc Việt Nam có 5 cung gọi là Ngũ Cung: Hò, Xự (Y), Xang, Xê, Cống (Phan -Oán), tượng trưng cho Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Trong 5 cung này thể hiện Hỷ, Nộ, Ái, Ố (vui, buồn, yêu, giận, ghét). 20 bài Tổ có tất cả những thể điệu đó,
DVNDT Hướng Việt. Lý do nào cô thành lập nhóm Tiếng Vọng Quê Hương? Nhóm sinh hoạt như thế nào?
Gs Ngọc Dung: Hằng tháng Đoàn Tiếng Vọng Quê Hương tụ họp lại tập dợt bài bản để nâng cao thêm tay nghề. Tôi ra đề tàim các anh chị em tụ họp lại, cố gắng học hỏi thêm hoặc ôn lại những bài đã lâu không đàn. Trong lúc tập hợp tôi yêu cầu không ca vọng cổ, người sắp biểu diễn thì ưu tiên. Mọi người ai cũng hát được vọng cổ, nếu họp lại 20 người mà người nào cũng ca Vọng Cổ thì còn gì để mà học hỏi? Các anh chị em ở các nơi xa như San Francisco, Sacramento, Oakland…họ không quảng ngại đường xá xa xôi, tốn công, tốn của, cũng vì đam mê âm nhạc Việt Nam mà tìm đến với nhau.
Tuy nhiên cũng có nhiều nghệ sĩ ngoài Đoàn, ho chỉ trích qua đây mà còn đàn những bản nhạc xưa như thế, có ai đàn được cho mà ca? Cô học trò tôi nghe được câu đó nói thẳng rằng “Chúng tôi học là muốn giữ gìn âm nhạc Việt Nam không bị mai một, còn các anh là thầy đàn, nếu không biết bản nhạc nào đó thì các anh phải học, biển học vô biên. Người ta thường nói: “Thầy đàn chớ không Thầy ca” Không lẽ âm nhạc Việt Nam chỉ biết ca Vọng Cổ thôi sao? Khi tôi đến với Gs Ngọc Dung, tôi nhận thấy âm nhạc cổ truyền quá bao la, cả đời chắc học cũng không hết. Hồi chưa học tôi cứ tưởng Âm Nhạc Cổ Truyền chỉ là Vọng Cổ, dễ quá.”
DVNDT Hướng Việt: Cô có những ước mơ gì cho nhóm Tiếng Vọng Quê Hương mà cô thành lập cũng như âm nhạc cổ truyền Việt Nam ở hải ngoại?
Gs Ngọc Dung: Ước mơ của tôi là truyền bá âm nhạc cổ truyền ngày mỗi rộng lớn hơn. Tôi không dám mơ ước gì đối với người ngoại quốc, tôi chỉ mong ước người Việt Nam mình, người lớn cũng như người trẻ, phải biết quý và yêu thương âm nhạc nước nhà để âm nhạc cổ truyền mình không bị mai một. Sắp tới đây, Seattle có tổ chức Đại Hội Âm Nhạc Cổ Truyền Việt Nam tụ họp rất nhiều nhân tài trẻ tuổi, có kiến thức cao, có tâm hồn rất phóng khoáng, đặc biệt các em rất quý bộ môn đàn tranh và nhứt quyết nối gót tiền nhân để các em có thể tự hào và hãnh diện với nền Quốc Nhạc.
Tháng 7 Năm 2013
Tiếng Vọng Quê Hương – Theo gót tiền nhân
Giáo Sư Ngọc Dung học đàn tranh từ năm lên 7 tuổi, là truyền nhân của Giáo Sư nhạc miền Nam nổi tiếng, Giáo Sư Phạm Văn Nghi. Sau khi tốt nghiệp tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn, cô được lưu lại làm giảng viên và dạy đàn từ năm 1967-1970. Năm 1980, sau khi vượt biên và định cư tại thành phố San Jose tiểu bang California, Hoa Kỳ, cô thành lập đoàn Tiếng Vọng Quê Hương chuyên về phổ biến nhạc cổ truyền miền Nam. Đến năm 2000, đoàn chính thức trở thành một tổ chức bất vụ lợi. Bao nhiêu năm miệt mài với âm nhạc, cô đã đào tạo hằng trăm lớp nghệ sĩ, nhạc sĩ chuyên về nhạc cổ truyền niềm Nam.
Giáo sư Ngọc Dung sẽ có mặt biểu diễn và thuyết trình tại Đại Hội Âm Nhạc Truyền Thống Lần II được tổ chức tại Hý Viện Shorecrest, Performing Arts Center ở thành phố Shoreline, phía Bắc Seattle, vào ngày 19 tháng 7 tới đây.
Tuần báo VNVV xin được phép gởi đến quý bạn đọc bài phỏng vấn của nghệ sĩ Việt Hải với Giáo Sư Ngọc Dung để hiểu thêm phần nào những cống hiến của một nghệ sĩ đã dành trọn cuộc đời và tâm huyết để chăm lo và bảo tồn âm nhạc cổ truyền Việt Nam, ngay cả nơi xa xứ.
Hướng Việt: Cơ duyên nào đã đưa cô đến với đàn tranh cũng như chuyên về bộ môn cổ nhạc miền Nam?
Giáo Sư Ngọc Dung: Tôi được chân truyền từ ba má nuôi ông bà Phạm Văn Nghi & Hồ Thị Bửu là giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ Sài Gòn. Tôi nhớ hồi còn nhỏ, thầy Tư Nghi có mở trường tiểu học tư thục, tất cả các em trong xóm đều đi học trường thầy trong đó có tôi, những chiều thứ bảy (học sinh nửa buổi) tôi còn ở lại chơi với mấy bạn, tôi thấy các chú các bác đến nhà thầy & mọi người đến sau lưng xe có chở 1 cây đàn. Tôi nghĩ “hôm nay nhà thầy có chơi nhạc.” Tôi ở lại ngồi nghe. Nhiều lần như vậy, thầy và cô hỏi tôi có thích ca hay đàn không? Nếu thích về xin phép ba má qua đây làm con nuôi với điều kiện không được nhì, cho đứt luôn. Khi về nhà tôi năn nỉ má cho qua bên ấy làm con nuôi, má tôi không đồng ý bởi vì tôi là đứa con gái út của má tôi. Một năm sau, má tôi mất, lúc đó tôi mừng quá (mới 8 tuổi ngu quá phải không quý vị), tôi qua bên ba má nuôi ở luôn. Đầu tiên tôi học ca cùng với một số học sinh của thầy. Tôi không có làn hơi phong phú nên lúc trả bài, tôi sơ ướt đẫm mồ hôi. Thấy vậy, má nuôi bàn với ba nuôi chuyển tôi qua học đàn tranh và hỏi tôi có thích không? Tôi gật đầu. Ba nuôi dạy tôi học đàn tranh ráo riết, có thể nói tuổi thơ của tôi là học đàn tranh, và đàn tranh…mỗi ngày mỗi học; sáu năm trời ròng rã; học xong bài nào tôi hoạ dần bài ấy. Ba tôi đàn Kìm còn má tôi thì hát…Thời gian sau, ba tôi dạy xong một bài nhạc, ông bảo đàn với ông nhưng KHÔNG được đàn bài của ông dạy mà phải tự sáng kiến, tự chế biến ra. Ba tôi nói, nếu đàn bài của ông “cây roi đo (cây chổi lông gà), ba sẽ đánh con”. Sợ quá, tôi vừa đàn vừa khóc vì không biết phải đàn thế nào, nhưng sợ cây chổi lông gà quá nên tôi khảy bậy bạ miễn làm sao trùng giữa câu và cuối câu mà thôi. Đàn xong, ba tôi khen “được được”…Hún hồn! Và từ đó tôi tự thiên biến vạn hoá những nốt nhạc theo ý của tôi.
DVNDT Hướng Viêt: Những tháng năm trao đổi ngón đàn với sự chỉ dẫn của cha nuôi là giáo sư nổi tiếng Phạm Văn Nghi ắt phải có nhiều kỷ niệm lắm xin cô chia xẻ một vài kỷ niệm cho đọc giả được không?
GS Ngọc Dung: Về kỷ niệm thứ nhất: Lúc tôi đàn khá rồim tôi lại thích đàn những bài tân nhạc. Tôi tự nhớ những bài nhạc rồi tập đànm ví dụ: Lòng Mẹ, Mưa Trên Phố Huế v..v…Những âm thanh đó đến tai ba nuôi. Ông liền kêu tôi đến và cấm tuyệt đối không được đàn mấy bài ấy, cần phải luyện tập kỹ lưỡng âm nhạc cổ truyền cao siêu chừng nào thì lúc đó những bài tân nhạc đễ như ăn cơm bữa vậy. Bây giờ tôi thấy đúng.
Về kỷ niệm thứ hai: Là ngày tôi cúng Tổ Âm Nhạc Cổ Truyền Việt Nam. Ngày đó vui lắm, cúng ba ngày. Các học trò của ba má đủ phương trời góc biển tụ họp về tham dự Mọi người kệ nệ, bưng bê lễ vật đến cúng, nhất là phải có một con gà cúng Tổ. Họ làm suốt ngày đêm để kịp ngày chánh cúng Tổ (đêm 11 rạng sáng 12 Âm Lịch). Trong khi cúng, các bạn và các đệ tử của ba má lần lượt ra mắt Tổ, hát suốt đêm. Sáng hôm sau, mọi người đem về một cặp chân gà của mình đã cúng. Mỗi con đều để tên của mình và treo lên giàn bếp xem có học thành tài không? Nếu móng gà cong và chụm lại thì sẽ học thành công, điều này tôi không biết có đúng hay sai?
DVNDT Hướng Việt: Có được nghe cô kể về kỷ niệm khi cô đến thăm Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Văn Khê ở Paris. Xin cô kể lại kỷ niệm này cho độc giả được không?
Gs Ngọc Dung: Năm 1969, tôi và chị Phương Oanh có dịp may tham dự tổ chức Dân Vận Quốc Ngoại Di Âu Châu 2 tháng. Trong chuyến đi này, chị Thuý Hoan khuyên chúng tôi nên gặp ông Trần Văn Khê (xin nói thêm, lúc đó ông Trần Văn Khê là cố vấn ban Hoa Sim). Thành phần sáng lập ban Hoa Sim: Phạm Thuý Hoan (VN), Phương Oanh (Pháp), Ngọc Dung (Mỹ). Lúc đó chúng tôi gặp anh Hải là con của ông Khê và muốn xin gặp ông. Và mấy ngày hôm sau anh Hải nói ba nằm bịnh viện, muốn chúng tôi cùng anh Hải đến. Bác sĩ nhà thương không đồng ý vì thấy chúng tôi mỗi đứa tay cầm một cây đàn tranhm sợ ồn ào bệnh nhân không nghỉ ngơi được nhưng ông Khê nói với bác sĩ rằng: “Có thể tôi nghe nhạc, tôi sẽ bình phục mau hơn.” Chúng tôi được tiếp xúc với ông trong phòng bệnh. Tôi và chị Phương Oanh hoà tấu những bài nhạc mới và những kỷ thuật mới. Khi nghe xong, ông phán một câu: “Hoa Lá Cành, không gốc rễ sẽ chết sớm.” Tôi xin phép ông: “Khi ông khoẻ về nhà, nếu có dịp chúng tôi sẽ đến hầu ông.” Sau một vòng biểu diễn các nước chúng tôi quay về lại Paris. Lúc này anh Trần Quang Hải có gặp chúng tôi và mời chúng tôi đến nhà. Lần này tôi hầu ông những bài nhạc mà ông yêu cầu: Ha, Đăng, Tiểu, 3 bài Nam, và tất cả những bài nhạc mà ông muốn hoà cùng tôi, nói cung là 20 bài tổ. Đàn xong khoảng 3 giờ.Trước khi về, ông phán một câu: “Đúng là có gốc, có rể, tuổi trẻ tài cao.” Những lời nói của ông còn vang vang bên tai tôi…
DVNDT Hướng Việt: Cô có những khó khăn nào những năm tháng mới định cư tại Hoa Kỳ trong công việc giữ nhạc cổ truyền Viêt Nam?
Gs Ngọc Dung: Khi đinh cư ở Mỹ, đầu tiên là phải tham dự các buổi Lễ của cộng đồng tổ chức, trước là phổ biến, sau kiếm học trò…nhưng khó khăn nhất là kiếm nhạc cụ. Khi vượt biển, tôi chỉ mang theo được hai cây đàn tranh. Thời gian đầu, chúng tôi phải đi San Francisco tìm mua đàn tranh Tàu. Đàn tranh Tàu thì dây đàn to, bự quá, nhấn khá khó. Nghe đâu có bán đàn tranh thì tôi lấy địa chỉ, số phone. Mừng nhứt là mua được một ây đàn, khổ cực trăm chiều…Thêm nổi khó khăn khác. Đàn hoài cũng đứt giây. Không có giây đàn tranh, tôi phải dùng giây đàn guitar. Thay một sợi mất $1. Khó khăn nữa là giây đàn guitar ngắn hơn giây đàn tranh. Tôi phải lấy 2 giây ngắn nối lại thành một sợi giầy dài.Giây đàn Guitar rất sắt, lúc đàn Mổ, Rung, Nhấn không cẩn thận trúng ngay chỗ nổi thì sẽ bị đứt tay, chảy máu. Lúc đó có một ông cụ học đàn, thấy vậy ông nói giây đàn này giống giầy niềng răng quá! (Cháu của ông là Nha Sĩ). Tìm ra chân lý! Tôi vội cho ông số giây đàn để order. Mỗi số mua nửa pound, order 4 số: đàn nhỏ 1 số, đàn lớn 3 số…hiện tại tôi còn mấy ký giầy đàn này. Cũng may mắn cho tôi bây giờ mà mua giây đàn lớn thì rất khó.
DVNDT Hướng Việt: Ngoài các tiết mục trình diễn cô còn đóng góp một bài thuyết trình với đề tài, “Diễn giải và minh hoạ 20 bài nhạc tổ miền Nam”, xin cô nói thêm về 20 bài Tổ.
Gs Ngọc Dung: Nói về 20 bài Tổ, tôi xin trình một câu Nho học của tiền nhân đã để lại cho thế hệ sau “NHỨT THỜI LÀU THÔNG NHI THẬP TỔ BẢN” tức người học nhạc miền Nam phải thuộc lòng 20 bài Tổ. Trong đó có
6 Bắc: Lưu Thuỷ Trương, Phú Lục, Lục Chấn, Bình Bán Chấn, Tây Thi trường (vắn), Cổ Bản Trường (Vắn), Xuân Tình Chấn.
7 bài Lễ: Long Đăng, Long Ngâm, Ngũ Đối Hạ, Ngũ Đối Thượng, Tiểu Khúc, Vạn Giá, Xàng Xê
3 bài Nam: Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung).
4 bài Oán: Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng (Cầu), Phụng Cầu (Hoàng), Cửu Khúc Giang Nam.
Âm Nhạc Việt Nam có 5 cung gọi là Ngũ Cung: Hò, Xự (Y), Xang, Xê, Cống (Phan -Oán), tượng trưng cho Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Trong 5 cung này thể hiện Hỷ, Nộ, Ái, Ố (vui, buồn, yêu, giận, ghét). 20 bài Tổ có tất cả những thể điệu đó,
DVNDT Hướng Việt. Lý do nào cô thành lập nhóm Tiếng Vọng Quê Hương? Nhóm sinh hoạt như thế nào?
Gs Ngọc Dung: Hằng tháng Đoàn Tiếng Vọng Quê Hương tụ họp lại tập dợt bài bản để nâng cao thêm tay nghề. Tôi ra đề tàim các anh chị em tụ họp lại, cố gắng học hỏi thêm hoặc ôn lại những bài đã lâu không đàn. Trong lúc tập hợp tôi yêu cầu không ca vọng cổ, người sắp biểu diễn thì ưu tiên. Mọi người ai cũng hát được vọng cổ, nếu họp lại 20 người mà người nào cũng ca Vọng Cổ thì còn gì để mà học hỏi? Các anh chị em ở các nơi xa như San Francisco, Sacramento, Oakland…họ không quảng ngại đường xá xa xôi, tốn công, tốn của, cũng vì đam mê âm nhạc Việt Nam mà tìm đến với nhau.
Tuy nhiên cũng có nhiều nghệ sĩ ngoài Đoàn, ho chỉ trích qua đây mà còn đàn những bản nhạc xưa như thế, có ai đàn được cho mà ca? Cô học trò tôi nghe được câu đó nói thẳng rằng “Chúng tôi học là muốn giữ gìn âm nhạc Việt Nam không bị mai một, còn các anh là thầy đàn, nếu không biết bản nhạc nào đó thì các anh phải học, biển học vô biên. Người ta thường nói: “Thầy đàn chớ không Thầy ca” Không lẽ âm nhạc Việt Nam chỉ biết ca Vọng Cổ thôi sao? Khi tôi đến với Gs Ngọc Dung, tôi nhận thấy âm nhạc cổ truyền quá bao la, cả đời chắc học cũng không hết. Hồi chưa học tôi cứ tưởng Âm Nhạc Cổ Truyền chỉ là Vọng Cổ, dễ quá.”
DVNDT Hướng Việt: Cô có những ước mơ gì cho nhóm Tiếng Vọng Quê Hương mà cô thành lập cũng như âm nhạc cổ truyền Việt Nam ở hải ngoại?
Gs Ngọc Dung: Ước mơ của tôi là truyền bá âm nhạc cổ truyền ngày mỗi rộng lớn hơn. Tôi không dám mơ ước gì đối với người ngoại quốc, tôi chỉ mong ước người Việt Nam mình, người lớn cũng như người trẻ, phải biết quý và yêu thương âm nhạc nước nhà để âm nhạc cổ truyền mình không bị mai một. Sắp tới đây, Seattle có tổ chức Đại Hội Âm Nhạc Cổ Truyền Việt Nam tụ họp rất nhiều nhân tài trẻ tuổi, có kiến thức cao, có tâm hồn rất phóng khoáng, đặc biệt các em rất quý bộ môn đàn tranh và nhứt quyết nối gót tiền nhân để các em có thể tự hào và hãnh diện với nền Quốc Nhạc.
Tháng 7 Năm 2013