Vương Quốc Môn
4
Môn ngày xưa là một vương quốc, nằm trên Lãnh thổ của xứ Birmanie. Ngày nay do hoàn cản Lịch sử nước Môn chỉ còn lại một Lãnh thổ rât nhỏ nằm ở phía nam của xứ Birmanie, giáp với biên giới Thái lan. Birmanie là một Vương quốc nằm giữa hai nước Ấn độ và Trung Hoa(1).
Tôi được hiểu biết một phần nhỏ về Lịch sử và Văn hóa cũng như ngôn ngữ của Môn nhờ lớp về Môn nằm trong chương trình của trường INALCO. Tôi là sinh viên duy nhất là người Việt nam, đa số các bạn khác là người Thái lan, người Miên. Chữ viết và cách phát âm của tiếng Môn gần gủi với Thái Lan, Miên nên các bạn tôi theo dõi dễ dàng hơn tôi. Nhưng nhờ cách giảng dạy ngoài giờ học tại lớp chúng ta có thể tự trau dồi thêm bằng những bài làm và bài chỉ dẫn cách viết cũng như cách phát âm. Trong học kỳ một, nhiều lần tôi định bỏ cuộc nhưng nhớ câu: “Cố công mài sắc có ngày nên kim” Cuối cùng thì kết quả thi cuối khóa tôi được đậu với điểm 14 cũng không kém các bạn của mình.
Trong phần Lịch sử của Vương quốc Môn, có hai triều đại đáng ghi nhớ đối với tôi
Về phần lịch sử của nước Môn, xin mời các bạn xem trên site của Thầy Jenny.Thầy hiên nay là môt trong những người nghiên cứu và có nhiều hiểu biết sâu rộng. về ngôn ngữ cũng như văn hoá của Môn. Thầy là người Thụy Sĩ nhưng nói thong thạo tiếng Môn và tiếng Thái. Trường INALCO mời Thầy, từ Suisse đến Paris giảng dạy cho Sinh viên của ban Ngôn ngữ của những quốc gia thuộc vùng Đông nam Á( Section des langues orientales de l’Asie du Sud- Est). Vì trường tọa lạc ở trường đại học Dauphine mà thầythì ở tận Thụy Sĩ nên Thầy chỉ đến lớp mỗi tháng một lần vào ngày thứ năm và thứ sáu, và mỗi tháng chúng tôi có 10 giờ học.
1. Vào thời đại Trung nguyên :Thế kỷ thứ 13 và thế kỷ thứ 14. Dưới triều đại Pégou/ Hamsawati (1280-1296).
Magadu, tên hiệu là Wareo, vua của Marbatan
Truyền thuyết về tên Magadu: Ngày xưa cha mẹ của Magadu làm việc ngoài đồng, Trong khi bận công việc đồng áng, ông bà đem con để trong căn lều tránh mưa nắng ( theo tiếng Môn là “gadu”. Bỗng nhiên một con quạ bay ngang và đáp xuống nơi Magadu nằm ngủ, vì nó tưởng là có món ăn trong lều. Em bé , không sợ hãi và bỗng nhiên lớn lên và chạy đuổi con quạ đi với sữ dũng cảm của đưá trẻ thơ. Từ đó cha mẹ ông đặt cho ông tên Magadu.
Lớn lên, Magadu sống bằng nghề buôn bán đất cùng với nhóm bạn khoảng độ ba mươi người.
Một hôm trong chuyến di buôn, một người trong nhóm người khiên kiệu bị bịnh. Magadu, là trưởng nhóm, thay thế cho người bạn đồng hành bị bịnh kia. Khi lên đến đỉnh của một ngọn đồi, bỗng nhiên Trời nổi lên cơn going tố. Mưa tuông như thác dù rằng lúc đó không phải là mùa mưa. Trời gầm thét và sét đánh vào chiếc kiệu mà Magdu khiên. Chiếc kiệu này tan thành hàng trăm mảnh và theo dòng thác lũ rơi vào hố sâu. Magadu kinh hoàng và thấy từ phía tây của ngọn đồi một luồng ánh sáng rực rỡ, nơi đây xuất hiện một ngôi đền nguy nga tráng lệ. Linh tính cho biết rằng Magadu biết rằng không phải là người tầm thường và nên cố vấn một Nhà tiên tri tài giỏi. Nhà Tiên tri này đòi hỏi Magadu phải có một số tiền chồng lên cao bằng một người. Đó là một số tiền quá lớn. Nhưng Magadu suy nghĩ và tìm ra được một giải pháp. Ông đi chặt cây tre và đẽo cho theo chiểu cao của một người,và cắm cây tre xuống đất, trên ngọn cây tre, ông để món “cà-ri” và trên món ăn đó ông treo một đồng tiền.: nhu vậy là ông đã đáp ứng được những điều mà Nhà Tiên tri đòi hỏi ông.
Nhà Tiên Tri đúng theo dõi mưu mẹo của Magadu và nhận ra được Magadu quả là người có một sự thông minh lạ thường:” Chàng thanh niên này quả là người có một sức mạnh và một quyền lực phi thường”. Ông bèn khuyên Magadu nên ngưng việc mua bán tầm thường này và nên tìm cách phục vụVua, chứ không thể là một thường dân như thế này. Magadu vâng lời và bỏ nghề và ra đi. Và vị Tiên tri tiên đoán rằng Magadu sẽ lên ngôi báu trong tương lai.
Magadu đi về thành phố Sukhotai, nơi vua đống đô và tìm phương cách để phục vụ Vua. Nhưng giữa nơi đất lạ quê người, Magadu, không biết mình phải làm gì. Ông đi tìm người chăm sóc Voi (2) và bắt đầu chăm lo công việc này một cách tận tình. Ông làm việc say sưa không kể đêm ngày, và được người chủ hết lòng khen ngợi.
Một hôm lúc quét phân Voi, ông tìm ra được một đồng tiền và với đồng tiền này ông bèn đi mua hột giống của một loại rau quí. Ông gieo hạt giống và hết lòng chăm bón, Cây đâm chồi và nở cành là xanh um. Đến mùa cây chin, ông gặt hái và mang ra kinh đô biếu Vua của Sakhotai. Vua hết sức vui lòng với món ngon vật lạ đó và ban thưởng Magadu và phong cho ông giữ chức Trưởng bếp trong cung nội. Đó là bước đầu của ông trong việc lên ngôi về sau.
2. Câu chuyện về bà Hoàng “ MI CAO BU”, Hoàng hậu của nước Pegou ( 1453-1470).
Bà là con gái của Vua Rajâdhirâ, là vị vua của Pegou (1393-1421). Bà trở thành Hoàng hậu của Pegou vào lứa tuổi khá cao sau nhiều cuộc tranh chấpvà dành ngôi. Vì vậy trong những bài về Môn bà được gọi là” Nữ hoàng cao tuổi” ( BANA THAO) hay là bà Hoàng tóc trắng ( MI CAO BU).
Dười triều đại của bà, bà đem lại thanh bỉnh cho hai dân tộc Môn và Birmans trong suốt 50 năm. Bà là người khởi đầu xây cất và trùng tu đền chùa Shwedagon ở Rangoun. Bà thóai vị năm 1470 sau một triều đại yên lành và công ơn bà được ghi lạitrong lòng người dân Môn.
3. Pitakadhara/Dhammceti/Ramadhipati, vua Pégou (1470-1492).
Sau khi thoái vị, bà Hoàng Mi cao Bu nhường ngôi lại cho người con nuôi là vị sư Dhamaceti ( Nghĩa là La Pagode de la Loi : Ngôi chùa của Luật pháp) mặc dù có sự chống đối của các đại quan trong triều.
Ba dùng sự thông minh và khôn ngoan của mình để thuyết phục được sự chống đối của triều đình.
Một hôm trong buổi chầu, Bà Hoàng Mi cao Bu ra lịnh cho tạc một tượng Phật và bức tượng này được chạm khắc bằng những miếng gỗ của một chiếc cầu mà hàng trăm người dân qua lại. Bà đặt tượng Phật đó lên Ngai Vua, các quan đại triều quỳ xuống phủ phục trước tượng Phật kia và tôn sùng bức tượng đó như những bức tượng Phật quí giá trong Chùa. Sau đó bà hoàng mới hỏi quần thần :
« Tại sao các Khanh có thể tôn sùng một bức tượng được chạm trỗ bằng loại gỗ xuất phát từ cây cầu mà hàng ngàn người qua lại và dẫm chân lên trên đó từ nhiều thế kỷ ? ».
Các quan cung kính trả lời :
« Kính thưa Hoàng hậu vì hiện nay trước mắt Hạ thần không phải là những mảnh gỗ kia mà là Tượng của Đức phật ».
Hoàng hậu Mi cao Bu mỉm cười, trả lời :
« Điều này không khác gì với chuyện con ta lên nối ngôi. Và khi con ta được ta truyền lại Ngôi, cho dù con ta không phải thuộc dòng dõi quý tộc nhưng con ta sẽ là Vua thì các Khanh phải tôn trọng như khi ta còn trên ngôi . »
Triều đại của Dhammaceti cũng như triều đại Mi cao Bu, nuớc Môn sống trong hoà bình, hạnh phúc. Và đây là một triều đại của sự cải tiến về Đạo phật, là cơ bản của thuyết học của Ceylan.
Dhammaceti là vị vua không những là người cải tiến vế tôn giáo mà còn là người tiên khởi cho sự dẫn nước nhập điền trong nông nghiệp và ông đã khởi công xây cất Kinh đô mới của Pegou. Và đây cũng là triều đại mà lần đầu tiên Vương quốc Môn giao tiếp với người nước ngoài.
Triều đại này là một triều đại « Vàng Son » của dân tộc Môn.
Trong lịch sử Môn còn ghi lại công ơn của Vị Nữ Hoàng tuy già nua nhưng cũng nhờ vào sự thông minh và cứng cỏi biết chôn người tài và cũng là một người phụ nữ khôn ngoan và kiên cường dám chống lại cả một triều thần, Sụ quyết định khôn ngoan sáng suốt của bà đã mang lại cho dân tộc Môn được một thế kỷ an lành và thịnh vượng.
DIỄM ĐÀO
6.8.2009 (sacramento-USA)
(Viết phỏng theo bài về lịch sử của lớp Môn)
Môn ngày xưa là một vương quốc, nằm trên Lãnh thổ của xứ Birmanie. Ngày nay do hoàn cản Lịch sử nước Môn chỉ còn lại một Lãnh thổ rât nhỏ nằm ở phía nam của xứ Birmanie, giáp với biên giới Thái lan. Birmanie là một Vương quốc nằm giữa hai nước Ấn độ và Trung Hoa(1).
Tôi được hiểu biết một phần nhỏ về Lịch sử và Văn hóa cũng như ngôn ngữ của Môn nhờ lớp về Môn nằm trong chương trình của trường INALCO. Tôi là sinh viên duy nhất là người Việt nam, đa số các bạn khác là người Thái lan, người Miên. Chữ viết và cách phát âm của tiếng Môn gần gủi với Thái Lan, Miên nên các bạn tôi theo dõi dễ dàng hơn tôi. Nhưng nhờ cách giảng dạy ngoài giờ học tại lớp chúng ta có thể tự trau dồi thêm bằng những bài làm và bài chỉ dẫn cách viết cũng như cách phát âm. Trong học kỳ một, nhiều lần tôi định bỏ cuộc nhưng nhớ câu: “Cố công mài sắc có ngày nên kim” Cuối cùng thì kết quả thi cuối khóa tôi được đậu với điểm 14 cũng không kém các bạn của mình.
Trong phần Lịch sử của Vương quốc Môn, có hai triều đại đáng ghi nhớ đối với tôi
Về phần lịch sử của nước Môn, xin mời các bạn xem trên site của Thầy Jenny.Thầy hiên nay là môt trong những người nghiên cứu và có nhiều hiểu biết sâu rộng. về ngôn ngữ cũng như văn hoá của Môn. Thầy là người Thụy Sĩ nhưng nói thong thạo tiếng Môn và tiếng Thái. Trường INALCO mời Thầy, từ Suisse đến Paris giảng dạy cho Sinh viên của ban Ngôn ngữ của những quốc gia thuộc vùng Đông nam Á( Section des langues orientales de l’Asie du Sud- Est). Vì trường tọa lạc ở trường đại học Dauphine mà thầythì ở tận Thụy Sĩ nên Thầy chỉ đến lớp mỗi tháng một lần vào ngày thứ năm và thứ sáu, và mỗi tháng chúng tôi có 10 giờ học.
1. Vào thời đại Trung nguyên :Thế kỷ thứ 13 và thế kỷ thứ 14. Dưới triều đại Pégou/ Hamsawati (1280-1296).
Magadu, tên hiệu là Wareo, vua của Marbatan
Truyền thuyết về tên Magadu: Ngày xưa cha mẹ của Magadu làm việc ngoài đồng, Trong khi bận công việc đồng áng, ông bà đem con để trong căn lều tránh mưa nắng ( theo tiếng Môn là “gadu”. Bỗng nhiên một con quạ bay ngang và đáp xuống nơi Magadu nằm ngủ, vì nó tưởng là có món ăn trong lều. Em bé , không sợ hãi và bỗng nhiên lớn lên và chạy đuổi con quạ đi với sữ dũng cảm của đưá trẻ thơ. Từ đó cha mẹ ông đặt cho ông tên Magadu.
Lớn lên, Magadu sống bằng nghề buôn bán đất cùng với nhóm bạn khoảng độ ba mươi người.
Một hôm trong chuyến di buôn, một người trong nhóm người khiên kiệu bị bịnh. Magadu, là trưởng nhóm, thay thế cho người bạn đồng hành bị bịnh kia. Khi lên đến đỉnh của một ngọn đồi, bỗng nhiên Trời nổi lên cơn going tố. Mưa tuông như thác dù rằng lúc đó không phải là mùa mưa. Trời gầm thét và sét đánh vào chiếc kiệu mà Magdu khiên. Chiếc kiệu này tan thành hàng trăm mảnh và theo dòng thác lũ rơi vào hố sâu. Magadu kinh hoàng và thấy từ phía tây của ngọn đồi một luồng ánh sáng rực rỡ, nơi đây xuất hiện một ngôi đền nguy nga tráng lệ. Linh tính cho biết rằng Magadu biết rằng không phải là người tầm thường và nên cố vấn một Nhà tiên tri tài giỏi. Nhà Tiên tri này đòi hỏi Magadu phải có một số tiền chồng lên cao bằng một người. Đó là một số tiền quá lớn. Nhưng Magadu suy nghĩ và tìm ra được một giải pháp. Ông đi chặt cây tre và đẽo cho theo chiểu cao của một người,và cắm cây tre xuống đất, trên ngọn cây tre, ông để món “cà-ri” và trên món ăn đó ông treo một đồng tiền.: nhu vậy là ông đã đáp ứng được những điều mà Nhà Tiên tri đòi hỏi ông.
Nhà Tiên Tri đúng theo dõi mưu mẹo của Magadu và nhận ra được Magadu quả là người có một sự thông minh lạ thường:” Chàng thanh niên này quả là người có một sức mạnh và một quyền lực phi thường”. Ông bèn khuyên Magadu nên ngưng việc mua bán tầm thường này và nên tìm cách phục vụVua, chứ không thể là một thường dân như thế này. Magadu vâng lời và bỏ nghề và ra đi. Và vị Tiên tri tiên đoán rằng Magadu sẽ lên ngôi báu trong tương lai.
Magadu đi về thành phố Sukhotai, nơi vua đống đô và tìm phương cách để phục vụ Vua. Nhưng giữa nơi đất lạ quê người, Magadu, không biết mình phải làm gì. Ông đi tìm người chăm sóc Voi (2) và bắt đầu chăm lo công việc này một cách tận tình. Ông làm việc say sưa không kể đêm ngày, và được người chủ hết lòng khen ngợi.
Một hôm lúc quét phân Voi, ông tìm ra được một đồng tiền và với đồng tiền này ông bèn đi mua hột giống của một loại rau quí. Ông gieo hạt giống và hết lòng chăm bón, Cây đâm chồi và nở cành là xanh um. Đến mùa cây chin, ông gặt hái và mang ra kinh đô biếu Vua của Sakhotai. Vua hết sức vui lòng với món ngon vật lạ đó và ban thưởng Magadu và phong cho ông giữ chức Trưởng bếp trong cung nội. Đó là bước đầu của ông trong việc lên ngôi về sau.
2. Câu chuyện về bà Hoàng “ MI CAO BU”, Hoàng hậu của nước Pegou ( 1453-1470).
Bà là con gái của Vua Rajâdhirâ, là vị vua của Pegou (1393-1421). Bà trở thành Hoàng hậu của Pegou vào lứa tuổi khá cao sau nhiều cuộc tranh chấpvà dành ngôi. Vì vậy trong những bài về Môn bà được gọi là” Nữ hoàng cao tuổi” ( BANA THAO) hay là bà Hoàng tóc trắng ( MI CAO BU).
Dười triều đại của bà, bà đem lại thanh bỉnh cho hai dân tộc Môn và Birmans trong suốt 50 năm. Bà là người khởi đầu xây cất và trùng tu đền chùa Shwedagon ở Rangoun. Bà thóai vị năm 1470 sau một triều đại yên lành và công ơn bà được ghi lạitrong lòng người dân Môn.
3. Pitakadhara/Dhammceti/Ramadhipati, vua Pégou (1470-1492).
Sau khi thoái vị, bà Hoàng Mi cao Bu nhường ngôi lại cho người con nuôi là vị sư Dhamaceti ( Nghĩa là La Pagode de la Loi : Ngôi chùa của Luật pháp) mặc dù có sự chống đối của các đại quan trong triều.
Ba dùng sự thông minh và khôn ngoan của mình để thuyết phục được sự chống đối của triều đình.
Một hôm trong buổi chầu, Bà Hoàng Mi cao Bu ra lịnh cho tạc một tượng Phật và bức tượng này được chạm khắc bằng những miếng gỗ của một chiếc cầu mà hàng trăm người dân qua lại. Bà đặt tượng Phật đó lên Ngai Vua, các quan đại triều quỳ xuống phủ phục trước tượng Phật kia và tôn sùng bức tượng đó như những bức tượng Phật quí giá trong Chùa. Sau đó bà hoàng mới hỏi quần thần :
« Tại sao các Khanh có thể tôn sùng một bức tượng được chạm trỗ bằng loại gỗ xuất phát từ cây cầu mà hàng ngàn người qua lại và dẫm chân lên trên đó từ nhiều thế kỷ ? ».
Các quan cung kính trả lời :
« Kính thưa Hoàng hậu vì hiện nay trước mắt Hạ thần không phải là những mảnh gỗ kia mà là Tượng của Đức phật ».
Hoàng hậu Mi cao Bu mỉm cười, trả lời :
« Điều này không khác gì với chuyện con ta lên nối ngôi. Và khi con ta được ta truyền lại Ngôi, cho dù con ta không phải thuộc dòng dõi quý tộc nhưng con ta sẽ là Vua thì các Khanh phải tôn trọng như khi ta còn trên ngôi . »
Triều đại của Dhammaceti cũng như triều đại Mi cao Bu, nuớc Môn sống trong hoà bình, hạnh phúc. Và đây là một triều đại của sự cải tiến về Đạo phật, là cơ bản của thuyết học của Ceylan.
Dhammaceti là vị vua không những là người cải tiến vế tôn giáo mà còn là người tiên khởi cho sự dẫn nước nhập điền trong nông nghiệp và ông đã khởi công xây cất Kinh đô mới của Pegou. Và đây cũng là triều đại mà lần đầu tiên Vương quốc Môn giao tiếp với người nước ngoài.
Triều đại này là một triều đại « Vàng Son » của dân tộc Môn.
Trong lịch sử Môn còn ghi lại công ơn của Vị Nữ Hoàng tuy già nua nhưng cũng nhờ vào sự thông minh và cứng cỏi biết chôn người tài và cũng là một người phụ nữ khôn ngoan và kiên cường dám chống lại cả một triều thần, Sụ quyết định khôn ngoan sáng suốt của bà đã mang lại cho dân tộc Môn được một thế kỷ an lành và thịnh vượng.
DIỄM ĐÀO
6.8.2009 (sacramento-USA)
(Viết phỏng theo bài về lịch sử của lớp Môn)