Vài kỷ niệm về má tôi
Kỷ niệm là những gì con người còn lưu lại trong tâm tư, ngang qua hình ảnh hay kỷ vật. Những gợi nhớ đó đưa con người như được « gặp » những người thân dù đã từ giã cỏi dương thế để về một thế giới nào đó. Một thế giới mà chưa có một nền khoa học nào chứng minh được là hiện hữu hay không ? Kỷ niệm nào cũng có những vui buồn lẫn lộn. Tuổi càng cao, con người thường hướng về dĩ vãng để tìm lại những hình ảnh của một thời xa xưa.
Tôi lớn lên trong tình thương và lo lắng của ngoại và má tôi, biết bao nhiêu kỷ niệm đi liền với tình thương và hi sinh của ngoại và má. Nhắc lại không biết bao nhiêu trang giấy cho vừa. Tôi có một niềm ân hận là chưa có thời gian thuận tiện để được bày tỏ tình thương, lòng biết ơn cũng như nói lên những lỗi lầm của mình với đấng sanh thành.
Những kỷ niệm còn ghi lại trong tâm tư tôi gắn liền với hình ảnh mẹ tôi với những hi sinh nho nhỏ nhưng những việc làm đó, khi mình còn nhỏ mình không nhận thức ra được vì má tôi luôn là ngưòi hi sinh âm thầm, không bao giờ than van và không hề kể công ơn.
Quyển tập đồ :
Má tôi trong chiếc áo dài tha thướt, chân mang đôi sandales cao gót màu trắng, đen hay màu tùy theo màu của chiếc áo dài hay tùy theo màu quần. Tóc má uốn ngắn, có lọn. dáng má sang trọng trong những chiếc áo dài có tay phùn vào năm 1952, 1953. Lúc đó chắc là « à la mode ». Mỗi sáng chuẩn bị đi dạy ở trường trung học Nguyễn Thông (tỉnh Vĩnh Long), má chuẩn bị cho tôi những trang đầy chữ má viết, tôi sẽ viết đồ lên. Bản chất lười biếng, nên má thường treo giải thưởng nếu viết xong thì má cho « một đồng ». Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1953, lúc còn ở Vĩnh Long, mỗi khi mua xôi giá 5 cắc, thì mình có thể xé tờ giấy một đồng ra làm hai. Có những hình ảnh trong thời thơ ấu còn ghi lờ mờ trong ký ức ?
Có lẽ nhờ vào quyển tập đồ chữ viết của má mà ngày nay tôi có nét chữ « đẹp » (!) tựa nét chữ của má ?
Sau khi ba tôi rời quê hương, má cùng ngoại và mấy anh em tôi về quê ngoại nằm trên đường Phan Thanh Giảng, con đường từ Cầu Lộ xuống đến chợ Vĩnh Long. Nơi đây có bến xe đò đi các vùng lân cận và đi Sài Gòn.
Gia đình tôi ở trong căn nhà của bà Cố. Một căn nhà thật rộng. Chung quanh có đất trồng cây ăn trái, nào mận, nhãn, chùm ruột, đu đủ…Ngoài ra chưa kể có dàn trầu và cây cao vì cả nhà, bà cố, ngoại và hai bà dì ai cũng ăn trầu.
Những kỷ niệm về gia đình tôi, chỉ là những miếng Puzzel mà tôi cố gắng ghép lại trong trí nhớ vì có những điều mà con cái trong gia đình không được biết. Tôi hay quan sát và ghi nhớ những kỷ niệm của tuổi thơ, nhưng đôi khi không biết mình có nhớ và hiểu đúng những gì liên quan đến gia đình mình không ? Nhưng dù gì chăng nữa tôi cũng muốn ghi lại để chia sẻ cùng anh em, hay con cháu tôi có dịp đọc những điều ghi chép trên trang giấy này ?
Tôi nói sơ qua về lịch sử trường Trung học Nguyễn Thông là nơi má tôi phụ trách lớp Pháp văn ? Và nói sơ qua về trường Tư thục Long Hồ nằm trên đất của gia đình bên ngoại. Đây chỉ là những ghi nhận cá nhân theo cái nhìn của một đứa trẻ sáu tuổi va sau hơn sáu mươi năm tôi đi ngược dòng thời gian để ghi lại nhưng tiếc thay ngoại và má tôi không còn nữa để xác nhận những điều mà tôi nhận thấy đúng hay không ?
Trước kia, trong miền Nam chỉ có ba trường trung học là trường Petrus Ký ở Sài Gòn, trường Nguyễn Đình Chiểu ở tỉnh Mỹ Tho, trường Phan Thanh Giảng ở tỉnh Cần Thơ.
Tỉnh Vĩnh Long là đất văn hoá mà lại không có trường trung học. Con của những gia đình khá giả sau khi tốt nghiệp bằng Tiểu học, thì phải sang học ở Cần Thơ hay Mỹ Tho còn những gia đình nghèo thì con cái phải nghỉ học sau khi học xong cấp tiểu học.
Nhận thấy chính quyền Pháp không quan tâm đến nên giáo dục của tỉnh nhà nên Cha Nguyễn Ngọc Quang, cha Trần văn Thiện và ông Thanh tra Nguyễn Văn Kính họp nhau với sự có mặt của đaị tá Pháp De Castries để kiến nghị lên nhà cầm quyền Pháp trả lại trường Tiểu học bị Pháp chiếm đóng, xin sửa chữa lại nhà dưỡng lão để thành lập trường Trung học.
Khoảng năm 1948, khu nhà dưỡng lão sửa xong, đến năm 1949, trường Cao Tiểu học Vĩnh Long ra đời. Trường chỉ có lớp đê thất. Đến năm 1954 trường Nguyễn Thông mở thêm từ đệ thất đến lớp đê tứ, trường đưọc gọi là trường Trung học đệ nhất cấp và trường mang tên là trường Trung học Nguyễn Thông.
Đến năm 1956, trường được dọn về trường tiểu học của Pháp, do đại tá De Castries giao lại, được xây cất và sửa sang lại. Trường nhìn sang sở Công chánh và sông Long Hồ.
Đến năm 1958, trường được mở rộng trở thành trường Trung học đệ nhị cấp. Năm 1961, có nghị định đổi tên là Tống Phước Hiệp.
Trường Nguyễn Thông là trường bán công. Năm 1950, trường trung học tư thục công giáo thứ hai là trường Nguyễn Trường Tộ. Trường trung học thứ ba là trường Lam Sơn. Ngôi trường tư thục thứ tư là trường tư thục Long Hồ vào năm 1953, hiệu trưởng là ông Lê Minh Ký.
( viết theo tài liệu tongphuochiep-vinhlong.com. Lịch sử các trường Trung học Vĩnh Long)
Ngôi trường này nằm trên đất nhà của bà cố tôi. Tôi nghĩ là trường thuê đất hay thuê nhà của gia đình tôi. Văn phòng của ông Lê văn Ký là một gian trong căn nhà lớn. Những lớp học ngay trong đất nhà, sau cây nhãn. Ngay ngõ hẽm vô nhà nhỏ có lớp học. Ngay cửa của văn phòng ông Hiệu trưởng có treo chuông, loại chuông đồng rất nặng, mỗi ngày giờ vô lớp và giờ tan lớp có chú Ba, ngày xưa tôi nhớ mọi người gọi là chú ba Lẹ, đứng rung chuông báo giờ ra chơi và giờ vô học. Cũng cái chuông này mà ông anh cả tôi ( lúc đó khoảng 8 tuổi ) nhón người lên rung chuông, không ngờ dây treo chuông bị đứt, chuông rớt ngay đầu, máu ra lênh láng, má tôi chở ông anh đi vào nhà thương ở gần chợ.
Những vui buồn, đau ốm bịnh hoạn chúng tôi luôn thấy chung quanh mình chỉ có Ngoại và Má thôi. Không biết anh em tôi nghĩ như thế nào về hai đấng sanh thành này, nhưng đó hai hình ảnh mà tôi không bao giờ quên được những hi sinh của Ngoại và Má, cho dù con cái và cha mẹ có những quan điểm và suy nghĩ bất đồng khi mình lớn lên, nhưng không vì vậy mà mình có thề quên được những hi sinh. Vì vậy mà mình vẫn cảm thấy ân hận khi mình chưa là tròn hai chữ « hiếu đạo » !
Và tôi nhớ cũng như còn nhiều hình ảnh, má và bốn anh em chụp ở sân trường Nguyễn Thông, và ngay trước lớp của trường Long Hồ, ngõ đi vào nhà bà Cố.
( Hình chụp trong trường Nguyễn Thông…)
Anh em tôi lớn lên trong ngôi nhà này, có bà Cố, bà ngoại tôi, cùng hai bà Dì (em của Ngoại không lập gia đình) hai bà lúc đó được đi học có bằng cấp , bà Bảy có bằng Trung học, bà Tám học lớp Dactylo, Sténo, bà ngoại là cô giáo.
Nơi đây chúng tôi có một cuộc sống bình yên, phẳng lặng. Hai ông anh được má ghi tên cho học trường tiểu học Pháp. Ba tôi ra « chỉ thị » từ nước ngoài là các con phải học chương trình Việt.
Gia đình chúng tôi dọn lên Sài Gòn. Hai ông anh cũng vất vả một vài năm cuối ở trường Tiểu học trước khi thi vô trường Petrus Ký, còn tôi và cô em út thì thi vô trường Gia Long.
Chocolat đồng tiền.
Bốn anh em đứng ngay trước cổng nhà nằm trên đường Phan Thanh Giản. Nhiều chiếc xe đò chạy ngang, chúng tôi tranh nhau nhìn xem ở cửa sổ xe xem có má nhìn ra không. Một, hai , ba chiếc chạy ngang qua với tốc độ cũng khá nhanh, từ dốc câu Lộ, đi thẳng xuống chợ Vĩnh Long.
- Má, má, má !
Sau này khi tôi có con tôi mới chợt nhận thức rõ ràng hơn những hi sinh đó của mẹ mình. Cuộc sống với không gian cách trở, với những khó khăn kinh tế nhưng nói chung là sự ích kỷ của con người, nghĩ đến bản thân mình mà tôi chưa làm gì cụ thể để gọi là đền đáp phần nào công ơn nuôi dưỡng của mẹ mình. Bởi thế những gì mình có thể làm được dù là bé nhỏ cho những người mình thương yêu thì phải thực hiện ngay, nếu không mình sẽ phải mang niềm ân hận suốt đời !
Sau khoảng 6 năm ở tỉnh, Má chuẩn bị dọn lên Sài gòn. Lúc đầu má chưa tìm được nhà, nên má đi dạy ở Sài gòn, ở đậu nhà dì tôi, mỗi tuần má trở về. Và mỗi lần như vậy anh em tôi đều có những món quà nho nhỏ. Món quà in đậm trong lòng tôi là túi chocolat có những miếng chocolat hình đồng tiền quan Pháp màu vàng ánh. Vì vậy cho dù ngày nay, chocolat có rất nhiều hiêu và nhiều mẫu hình khác nhau, nhưng túi chocolat hình đồng tiền quan Pháp vẫn là loại chocolat mà tôi thích nhất !
Thời thơ ấu có lẽ là thời kỳ mà con người khó quên cho dù năm tháng trôi qua !
Fromage « Con bò cười »
Nói về lịch sử fromage thì không biết bao nhiêu trang giấy để hiểu về nguồn gốc của fromage. Từ thời xa xưa cho đến thế kỷ thứ 20, phải nói khi nói đến fromage thì người ta nghỉ ngay đến nước Pháp là một nước nổi tiếng về sản xuất nhiều loại fromage và nổi tiếng la fromage ngon trên thế giới. Dĩ nhiên trong đó có fromage « con bò cười » bên cạnh những loại fromages nỏi tiếng như La Maroilles, le Brie, le Neuchatel en Bray, la Camenbert, le Roquefort, le Bleu de Sassenage…
Năm 1962, Tổng thống nước Pháp, Charles de Gaulle có tuyên bố trong một sác lệnh là nước Pháp có 246 loại fromages (site. Androuet.com)
Còn nói về fromage « Con bò cười » phải nói là một loại fromage nổi tiếng trên thế giới. Tôi không biết fromage này đến Việt Nam vào thời điểm nào nhưng khi tôi được 6 tuổi (1954) là tôi đã biết loại fromage này vì là một trong những món ăn đắc tiền mà má tôi đã gói ghém trong đồng lương hạn hẹp của nhà giáo cho anh em chúng tôi được thưởng thức. Theo tài liệu wikipédia thì fromage này được đến những nước Á châu trong đó có Việt Nam vào năm 1929. Hộp giấy có hình « con bò cưới » màu đỏ dep lủng lẳng hai bông tai hình hộp fromage. Thật ra anh em tôi có bao giờ được thấy nguyên hộp đâu.
Chỉ nhớ rằng, mỗi chúa nhật, khi còn ở Tân Định, dù bận rộn đến đâu má cũng ráng luôn luôn cho anh em chúng tôi đi chơi, khi thì đi xem phim diễu mà anh em chúng tôi rất thích là phim hài của Jerry Lewis đóng với Dean Martin. Phim chiếu ở rạp Olympic, gần ngã sáu Sài Gòn mà sau này tôi dọn về ở khu này. Nhưng tất cả đều đổi thay, tuy nhiên mỗi khi đi ngang qua rạp hát ngày xa xưa với hình ảnh năm mẹ con đèo nhau trên những chiếc xe đạp. Em gái tôi được ngồi sau lưng xe Solex, ông anh cả đèo tôi sau lưng, ông anh thứ ba trên chiếc xe đạp. Năm mẹ con đi từ Tân định, dọc theo con đường Hai bà Trưng, xuyên qua nhiều con đường nhiều ngã tư. Má luôn luôn ngoáy ra sau để chờ hai câu con trai. Trước khi đi, má ghé qua hàng bán bánh mì thịt nằm trên vĩa đường Hai Bà Trưng và Trần Quang Khải. Thường thì má mua hai ổ bánh mì nóng dòn và bốn miếng fromage con bò hình tam giác. Bà bánh mì trét miếng fromage theo chiều dọc ổ bánh mì. Mùi fromage trộn lẫn với khúc bánh mì nóng hổi. Chúng tôi vừa đi vừa ăn. Hương vị này vẫn chưa phai nên cho dù ngày nay ở trên đất Pháp có rất nhiều loại fromage thật ngon và thật nổi tiếng, nhưng nhà tôi luôn luôn có hộp fromage này. Thỉnh thoảng tôi ăn như ngày xưa và mỗi lần ăn như vậy tôi nhớ lại sự hi sinh của má, vì thuở ấy fromage không phải là món ăn thường ngày !
Khô mực nướng.
- Tụi con thay quần áo đi. Hôm nay mình không đi xem hát nhưng má sẽ đưa tụi con chơi « mini-golf » ở bến tàu.
- Vậy hả má ? Trò chơi này tụi con chưa biết, có mắc lắm không má ?
- Má có tiền mà, má mới «hốt hụi ». Lâu lâu cho tụi con hưởng và biết thêm những chuyện mới lạ !
Má luôn luôn cho chúng tôi đầy đủ, không thiếu thứ chi khi và sau này khi lập gia đình tôi hiểu thêm là má cho chúng tôi đôi khi nhiều hơn khả năng của mình, vì má không muốn chúng tôi thua kém bạn bè. Má là người luôn hi sinh thầm lặng và không bao giờ than thở, không kể công như có một số bà mẹ khác !
Vừa đến khu bến Tàu, mùi mực nướng bay lên sực nức. Chiếc xe ba bánh có một lò than nhỏ, những ngọn lửa than hồng reo tí tách. Trên lò đất có một vĩ sắt bên trên có những con mực dẹp với những chiếc râu dài. Chưa kể là trên xe, có giăng dây treo lủng lẳng những con khô mực ốm dẹp, với những chùm râu dài. Chúng tôi chạy ùa tới, vừa nhìn má :
- Má ơi. Tụi con ăn mực được không Má ?
- Được. Mỗi đứa một con.
Ăn xong, má mua vé cho chúng tôi chơi mini golf. Môn chơi này, cần phải có sự tập trung, và nhắm cho đúng để những trái banh tròn nhỏ, lăn vào lổ. Tôi chỉ nhớ mơ hồ như vậy. Thật ra tôi cũng không thích trò chơi này, nhưng tôi đi vì con khô mực.
Thể dục thẫm mỹ
Một hôm nhân dịp dọn nhà. Tôi sắp dọn những quyển sách cũ kỹ. Bỗng nhiên tôi thấy một quyển sách ngả màu vàng. Loại giấy vàng mỏng. Mở ra xem thì thấy có những hình vẽ người phụ nữ với áo maillot màu đen. Nét vẻ đơn sơ, nhưng cũng đủ dẫn giải cho những động tác giúp cho thân hình đẹp. Cầm quyển sách trên tay, tôi nhớ vào năm tôi được 14 tuổi, vừa lúc thân hình bắt đầu nảy nở, Má đưa cho tôi quyển sách này :
- Đây là quyển sách có dạy những động tác để giữ cho thân hình đẹp. Bây giờ con lớn rồi, mỗi ngày con để ra khoảng ba mươi phút để tập những động tác này đê cho con có thân hình đẹp. Người phụ nữ ngoài khuôn mặt cũng cần có một vóc mình đẹp.
Khi tôi được 16 tuổi thì má cho tôi cây son, hộp phấn fond de teint, một chai dâu thơm, tôi vẫn còn nhớ chai dầu tên Intimate. Má dạy cho tôi trang điểm và tôi được trang điểm vào những ngày Tết, ngày lễ hoặc những ngày đi ăn cưới. Bây giờ tôi muốn tìm laị mùi thơm này mà không tìm ra đuợc. Dĩ nhiên sau này sang Pháp tôi biết nhiều mùi mà tôi thích hợp nhưng Intimate làm cho tôi nhớ má.
Một người mẹ luôn hướng dẫn tôi trong nhiều lãnh vực mà vào thời tôi còn trẻ, chắc ít người mẹ nào cho con mình biết những gì để làm đẹp. Má tôi là người có tư tưởng rất tiến bộ. Tôi cũng ảnh hưởng cách giáo dục phóng khoáng và cũng áp dụng trong sự giáo dục con mình.
Những hi sinh thầm lặng, biết bao hình ảnh, như con bò cười, bao chocolat đồng tiền quan, mùi bánh mì nóng pha lẫn với mùi thơm của fromage, mùi khô mực nướng…Tất cả như in sâu vào tiềm thức và chỉ cần nhìn thấy lại thì hình ảnh của mẹ tôi như nhắc nhở tôi, như khuyên dạy tôi sự hi sinh của một người mẹ. Hi sinh không cần những lời hoa mỹ, mà chỉ cần thể hiện qua những việc làm nho nhỏ. Biết bao người mẹ hi sinh, có bao nhiêu người được con cái đền đáp lại, nhưng tôi nghĩ rằng má tôi hi sinh mà không cần đáp lại, má luôn luôn tránh lo phiền cho các con, nụ cuời mà luôn nở trên môi và má thường trả lời những lời thăm hỏi của các con từ phương xa « Má khoẻ con, má không thiếu gì đâu. Con đừng lo cho má ». Má tôi là người phụ nữ can cường, không hề than thở.
Diễm Đào
Tháng 10.2020